Quyết định hành chính trực tiếp của chi phí và giá dịch vụ: Các thuế và phí dịch vụ trong hầu hết các ngân hàng đều được xác định bởi các ngân hàng trung ương và được thống nhất cho tất cả các ngân hàng. Điều này góp phần làm suy giảm chất lượng của các dịch vụ cung cấp cho khách hàng.
Sự không hiệu quả trong hành chính: Điều này được phản ánh trong việc nhân viên có tay nghề cao, thừa nhân sự và tiền lương thấp.
Qua bài nghiên cứu, tác giả đưa ra đề nghị các cơ quan giám sát cần đẩy mạnh việc thực hiện các khuyến nghị Basel II nhằm cải thiện kiểm soát nội bộ và bảo tồn vốn hóa cao của hệ thống ngân hàng. Việc thực hiện liên tục của các thỏa thuận Basel II giúp cải thiện trong việc quản lý rủi ro hoạt động liên quan trực tiếp đến chất lượng quản lý của các ngân hàng. Các đề xuất này sẽ cho phép các ngân hàng đưa ra các quy định chặt chẽ hơn với việc đo lường rủi ro nội bộ và cải thiện quy trình vận hành để tránh rơi vào tình trạng suy kiệt, đảm bảo sự ổn định hệ thống ngân hàng.
Muliaman D. Hadad, Maximilian J.B. Hall, Wimboh Santoso, Richard Simper, Economies of scale and a process for identifying hypothetical merger potential in Indonesian commercial banks, Journal of Asian Economics, 2013. Mục đích của tác giả trong bài nghiên cứu là muốn xác định việc tiến hành các thương vụ M&A giúp các ngân hàng tiết kiệm được chi phí thông qua lợi thế kinh tế theo quy mô hay không. Kết quả từ bài nghiên cứu cho thấy lợi thế nhờ tính kinh tế theo quy mô chủ yếu nằm trong các ngân hàng có quy mô nhỏ nhất và lớn nhất. Ngoài ra, tác giả cũng phát hiện không có lợi thế kinh tế theo quy mô trong các thương vụ M&A của các ngân hàng quốc doanh và các ngân hàng tư nhân ngoại hối, ngược lại sự sáp nhập giữa các ngân hàng nhỏ không ngoại hối thì có tác dụng đáng kể trong việc tiết kiệm chi phí.
Ioannis Asimakopoulos, Panayiotis P. Athanasoglou, Revisiting the merger and acquisition performance of European banks, International Review of Financial Analysis, 2013. Bài nghiên cứu này, tác giả xem xét việc tạo ra giá trị của giao dịch M&A trong ngành ngân hàng châu Âu trong giai đoạn 1990 - 2004. Điều này được
thực hiện, đầu tiên, bằng cách kiểm tra các phản ứng giá cổ phiếu của các ngân hàng đối với những thông báo của M&A và thứ hai, bằng cách phân tích các yếu tố quyết định của phản ứng này. Từ bài nghiên cứu, tác giả đưa ra được 5 kết quả:
Thứ nhất, một thông báo về thương vụ M&A dường như không tạo giá trị cho các cổ đông của bên mua lại, ngược lại với nó tạo ra giá trị đáng kể cho các cổ đông của các mục tiêu.
Thứ hai, các thương vụ M&A xuyên biên, đặc biệt là M&A giữa các ngân hàng, không tạo ra giá trị cho các cổ đông bên mua, các cổ đông thích các ngân hàng của họ chỉ hoạt động ở thị trường trong nước, do nhà đầu tư lo ngại về vấn đề minh bạch thông tin trong giao dịch xuyên biên giới cũng như niềm tin của họ rằng những khác biệt tồn tại trong các yếu tố văn hóa, pháp luật, kế toán giữa các nước sẽ chống lại sự thành công trong tiềm năng tăng trưởng và giảm chi phí.
Có thể bạn quan tâm!
- Hoạt động sáp nhập và mua lại của các Ngân hàng thương mại Việt Nam - 4
- Những Động Lực Và Hạn Chế Của Hoạt Động M&a
- Lược Khảo Các Nghiên Cứu Liên Quan Và Bài Học Rút Ra Về Hoạt Động Sáp Nhập Và Mua Lại Cho Việt Nam
- Thực Trạng Các Thương Vụ M&a Giữa Các Nhtm Việt Nam Trong Giai Đoạn 2011-2015
- Tình Hình Hoạt Động Kinh Doanh Của Các Ngân Hàng Sau M&a
- Năng Lực Cạnh Tranh Của Các Nhtm Việt Nam So Với Các Ngân Hàng Trong Khu Vực Đông Nam Á
Xem toàn bộ 166 trang tài liệu này.
Thứ ba, đối với các cổ đông của bên mua, các thương vụ M&A giữa các ngân hàng được niêm yết trên thị trường chứng khoán sẽ có lợi hơn so với ngân hàng mục tiêu không được niêm yết do lo ngại về vấn đề bất cân xứng thông tin.
Thứ tư, các cổ đông của các ngân hàng mục tiêu kiếm được lợi nhuận bất thường đáng kể trong mọi trường hợp (M&A xuyên biên hay trong nước).
Thứ năm, các cổ đông của bên mua dường như được hưởng lợi từ các ngân hàng có quy mô nhỏ hơn và có ít lợi nhuận từ các hoạt động phi lãi suất và tốt nhất là các cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán.Tuy nhiên, họ cũng lo ngại về tính thanh khoản thấp, hiệu quả thấp và rủi ro tín dụng caocủa các ngân hàng mục tiêu này.
2.3.2 Bài học rút ra từ các nghiên cứu liên quan cho hoạt động M&A tại Việt Nam
Các kết quả rút ra được về hoạt động M&A ngân hàng từ các bài nghiên cứu liên quan như sau:
Làn sóng M&A, đặc biệt trong lĩnh vực ngân hàng, xảy ra thường xuyên nhất trên thế giới là trong những giai đoạn hậu khủng hoảng tài chính.
M&A là một trong các chiến lược quan trọng của ngân hàng trung ương nhằm tái cấu trúc lại hệ thống ngân hàng trong những quốc gia có hệ thống ngân hàng hoạt động yếu kém, chất lượng tài sản thấp. Mục tiêu là thông qua M&A để giúp cho hệ thống ngân hàng phát triển ổn định và an toàn hơn, tránh được rủi ro sụp đổ hệ thống.
Lợi ích dễ nhìn thấy nhất của hoạt động M&A ngân hàng đó là giúp cho ngân hàng bên mua gia tăng quy mô vốn, gia tăng sức mạnh cạnh tranh trên thị trường và cải thiện hiệu quả chi phí.
Không có bằng chứng nào về sự gia tăng trong lợi nhuận của các ngân hàng sau M&A trong ngắn hạn và trung hạn; kể cả trong dài hạn thì sự gia tăng trong lợi nhuận cũng không được đảm bảo.
Cổ đông của ngân hàng mục tiêu (bên bán) sẽ có được những lợi ích đáng kể trong các thương vụ M&A, trong khi cổ đông của ngân hàng mua lại thường nhận được những tác động tiêu cực trong thu nhập, ít nhất là trong ngắn hạn và trung hạn.
Các đối tượng tiến hành M&A ngân hàng thành công với nhau thường là giữa các ngân hàng có quy mô nhỏ và hoạt động kém hiệu quả với các ngân hàng có quy mô lớn và hoạt động hiệu quả trên mức bình quân, đặc biệt có lợi hơn đối với các ngân hàng đã niêm yết trên thị trường chứng khoán để giảm nguy cơ về bất cân xứng thông tin và thông tin sai lệch.
Tỷ lệ thành công mà các ngân hàng mua lại có được trong các thương vụ M&A ngân hàng trên thế giới là không cao, chỉ khoảng 50%. Qua đó, ta thấy được rủi ro rất lớn đối với các ngân hàng mua lại khi tiến hành M&A.
Từ đó, người viết đã rút ra các bài học kinh nghiệm về hoạt động M&A cho hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam, như sau:
Thứ nhất, Ngân hàng nhà nước phải có những định hướng rò ràng, cụ thể để thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động M&A trong hệ thống ngân hàng Việt Nam như là một biện pháp giúp tái cơ cấu lại hệ thống ngân hàng nhằm
giúp cải thiện tình trạng hoạt động kinh doanh yếu kém của các ngân hàng giai đoạn 2011-2015 cũng như lành mạnh hóa tình hình tài chính của các ngân hàng thương mại Việt Nam, gia tăng sức mạnh cạnh tranh, qua đó, giúp ổn định hệ thống ngân hàng, đặc biệt là các ngân hàng có quy mô nhỏ và trung bình.
Thứ hai, các ngân hàng lớn (ngân hàng mua lại) phải có sự chuẩn bị kĩ càng và đầy đủ các nguồn lực trước khi tiến hành M&A để có thể xử lý được ngay lập tức những vấn đề khó khăn gặp phải sau M&A, đặc biệt là vấn đề nợ xấu, việc thiếu kĩ năng nghiệp vụ cũng như kĩ năng quản lý và kĩ năng tài chính của các ngân hàng mục tiêu.
Thứ ba, để đạt được thành công trong thương vụ M&A là một vấn đề rất khó khăn. Do đó, các ngân hàng trước khi tiến hành M&A phải có sự đánh giá và nhìn nhận đúng đắn về những ưu điểm và những hạn chế từ thương vụ M&A mang lại, đặc biệt là các ngân hàng mua lại.
Thứ tư, sự bất đồng trong lợi ích thu được từ thương vụ M&A giữa các cổ đông ngân hàng mua lại và cổ đông ngân hàng mục tiêu cũng là một vấn đề lớn cản trở các ngân hàng tiến hành M&A thành công.
Thứ năm, thương vụ M&A sẽ thành công cao hơn trong các thương vụ M&A giữa các ngân hàng nhỏ và các ngân hàng lớn, ngân hàng niêm yết hơn là các ngân hàng chưa niêm yết.
Cuối cùng, thương vụ M&A ngân hàng sẽ dễ đạt được thành công hơn khi các ngân hàng tham gia M&A có những đặc điểm tương đồng nhau về các mặt văn hóa, trình độ nhân sự và công nghệ.
Kết luận chương
Điểm quan trọng nhất trong bài luận về hoạt động M&A ngân hàng tại Việt Nam, đó là nhấn mạnh vai trò của hoạt động M&A như là một trong những chiến lược quan trọng nhất trong quá trình ổn định và phát triển của các NHTM Việt Nam trong giai đoạn tới 2016-2020.
Hình thức phân loại M&A thì chia thành 3 hình thức chính, bao gồm:
M&A theo chiều ngang.
M&A theo chiều dọc.
M&A tổ hợp.
Phương thức thực hiện M&A của các ngân hàng gồm có 5 phương thức chính, bao gồm:
Chào thầu.
Thương lượng tự nguyện.
Lôi kéo cổ đông bất mãn.
Thu mua trên thị trường chứng khoán.
Mua tài sản.
Quy trình tiến hành M&A chia thành 5 giai đoạn, bao gồm: Chuẩn bị trước M&A, lựa chọn ngân hàng mục tiêu, thực hiện thương vụ M&A, thương lượng chi tiết các điều khoản, ký kết hợp đồng và sự tích hợp hậu M&A.
Những động lực chính để tiến hành M&A, bao gồm:
Thứ nhất là, tránh nguy cơ phá sản.
Thứ hai là, nâng cao năng lực cạnh tranh.
Những mặt hạn chế trong hoạt động M&A
Tác động tiêu cực đến quyền lợi của cổ đông thiểu số.
Xung đột giữa các cổ đông lớn.
Xáo trộn trong văn hóa doanh nghiệp.
Sự ra đi của các nhân viên giỏi, tài năng.
CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG SÁP NHẬP VÀ MUA LẠI CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2011-2015
3.1 Giới thiệu chung
Trong chương 2, người viết đã giới thiệu khái quát về cơ sở lý thuyết các nội dung liên quan đến hoạt động M&A. Ở chương 3, người viết muốn đi sâu vào nghiên cứu thực trạng cụ thể của hoạt động M&A của ngành ngân hàng trong giai đoạn 2011-2015, đặc biệt tập trung chính là những thương vụ M&A giữa các NHTM Việt Nam với nhau. Mục tiêu của chương này, người viết muốn có cái nhìn thực tế hơn về những diễn biến của thị trường ngành ngân hàng, diễn biến của các thương vụ M&A của các NHTM Việt Nam. Từ đó, người viết có thể đưa ra những phân tích, đánh giá của mình thông qua việc tổng hợp thông tin và ý kiến đa chiều của các chuyên gia tài chính- ngân hàng để có thể đưa ra được một nhận xét chung nhất về hoạt động M&A ngân hàng tại Việt Nam giai đoạn 2011-2015, những mặt tích cực cũng như những mặt còn hạn chế của các thương vụ M&A, qua đó, người viết có thể đề ra các giải pháp giúp hoạt động M&A của các NHTM Việt Nam có thể thành công giai đoạn hậu M&A và ngày càng phát triển hơn trong thời gian tới- giai đoạn 2016-2020.
3.2 Thực trạng hoạt động của ngành ngân hàng
Trong bối cảnh của nền kinh tế Việt Nam mới hội nhập với kinh tế thế giới như hiện nay, vai trò của Chính Phủ và NHNN trong việc định hướng và ban hành các chính sách, hành lang pháp lý có ảnh hưởng rất lớn đến hướng đi và sự phát triển của hệ thống ngân hàng Việt Nam. Vì vậy, trước khi đi vào nghiên cứu thực trạng hoạt động M&A của các NHTM Việt Nam trong giai đoạn 2011-2015, người viết muốn đề cập đôi nét về bối cảnh lịch sử của nền kinh tế Việt Nam nói chung và ngành ngân hàng nói riêng trong giai đoạn này để mọi người có được góc nhìn tổng quát hơn, có thể nhận biết được đâu là nguyên nhân, nguồn gốc cho sự phát triển hoạt động M&A ngân hàng tại Việt Nam thời gian qua. Cột mốc quan trọng đánh
dấu cho bước chuyển mình trong hệ thống ngân hàng Việt Năm xuất phát từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu nổ ra vào cuối năm 2008 tại Mỹ, đỉnh điểm là sự sụp đổ của ngân hàng Lehman Brothers tại Mỹ, đã tạo ra hồi chuông cảnh tỉnh đến hệ thống tài chính ngân hàng của tất cả các quốc gia trên thế giới. Do đó, người viết sẽ giới thiệu về bối cảnh lịch sử của nền kinh tế Việt Nam, nhất là ngành ngân hàng giai đoạn từ năm 2009 đến tháng 9 năm 2015 để mọi người có cái nhìn toàn diện hơn về tình hình hoạt động và hướng đi của ngành ngân hàng trong thời gian này.
Năm 2009
Đối mặt với nguy cơ suy thoái nền kinh tế do chịu ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế toàn cầu, Chính Phủ và NHNN Việt Nam đã đưa ra gói kích cầu trị giá 8 tỷ USD nhằm đưa nền kinh tế vượt qua thời gian khó khăn này. Việc Chính Phủ và NHNN đã có những chính sách điều hành nhanh chóng và kịp thời này đã mang lại những hiệu quả bước đầu trong giai đoạn suy giảm kinh tế toàn cầu (tăng trưởng GDP cả năm 2009 ở mức 5,32%, cao hơn chỉ tiêu đề ra là 5%). Hệ quả từ gói kích cầu 8 tỷ USD đã giúp ngành ngân hàng trong năm 2009 đạt được những kết quả hết sức tích cực, cụ thể, theo báo cáo của NHNN, tổng phương tiện thanh toán của cả năm 2009 ước tính tăng 28,67% so với tháng 12/2008; huy động vốn tăng 28,7%; tín dụng tăng 37,73% (vượt mục tiêu tăng trưởng tín dụng đề ra là 30%), vốn chủ sở hữu của toàn hệ thống các tổ chức tín dụng tăng 31,9% so với cuối năm 2008; tổng tài sản tăng 26,49%, chênh lệch thu - chi tăng 53,09%, tỷ lệ nợ xấu ở mức 2,2%. Tuy nhiên, đi đôi với hiệu quả của gói kích cầu giúp nền kinh tế thoát khỏi suy thoái là những lo ngại áp lực lạm phát cả từ cầu kéo lẫn chi phí đẩy trong những năm tiếp theo. Do đó, vấn đề cấp thiết đối với nền kinh tế Việt Nam trong năm 2010 là có tiếp tục gói kích cầu thứ 2 nữa không khi nền kinh tế Việt Nam đã có những dấu hiệu tích cực cho việc phục hồi, cùng với đó là yêu cầu cấp thiết cần phải tái cấu trúc toàn diện toàn bộ nền kinh tế giai đoạn hậu khủng hoảng, chuyển từ phát triển theo chiều ngang sang phát triển theo chiều sâu, từ tính chất gia công sang sản xuất; tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu; chuyển nền kinh tế từ lệ
thuộc sang tương thuộc trong quá trình hội nhập nhằm xác lập vị thế của nền kinh tế Việt Nam trong thời kỳ hậu suy thoái trên trường quốc tế.
Năm 2010
Các chính sách của Chính Phủ và NHNN đưa ra trong năm 2010 không dứt khoát, định hướng không rò ràng khi vừa đưa ra các chính sách để kiềm chế lạm phát (do ảnh hưởng của gói kích cầu năm 2009, điển hình là kiềm chế mức tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống ngân hàng ở mức 25%, ban hành thông tư 13 và thông tư 19 quy định về các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của các tổ chức tín dụng, yêu cầu tất cả các ngân hàng phải đạt được mức vốn quy định tối thiểu
3.000 tỷ đồng vào cuối năm 2010…) lại vừa tiếp tục tung ra gói kích cầu thứ 2 nhằm đạt được tăng trưởng GDP cả năm là 6,5%. Hậu quả từ việc không rò ràng trong chính sách và định hướng này của Chính Phủ và NHNN đã làm cho nền kinh tế Việt Nam trong năm 2010 rơi vào tình trạng bất ổn định, cụ thể, tỷ lệ lạm phát cao ở mức 12%/năm (cao hơn 5% so với chỉ tiêu đề ra đầu năm là 7%/năm), tỷ giá và lãi suất biến động mạnh trong năm. Riêng với lĩnh vực ngân hàng, năm 2010 là năm chạy đua mở rộng quy mô của các NHTM Việt Nam để hoàn thành chỉ tiêu tăng vốn điều lệ tối thiểu lên mức 3.000 tỷ đồng mà NHNN đặt ra. Kết quả là, các NHTM đã chủ yếu tập trung tăng nhanh quy mô mạng lưới, quy mô tài sản, tập trung cho vay kinh doanh các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro cao như kinh doanh chứng khoán, bất động sản trong khi năng lực quản trị rủi ro của TCTD còn hạn chế… Bên cạnh đó, nhận thức và sự nghiêm túc trong chấp hành chỉ đạo của Chính phủ và NHNN ở một số ngân hàng chưa cao, chưa thể hiện tinh thần trách nhiệm đầy đủ đối với an toàn hệ thống, nhất là chưa thực hiện nghiêm túc các cam kết đồng thuận của Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam gây mất ổn định an toàn cho hệ thống. Mặc dù đây có thể xem là một năm khó khăn nhất đối với nền kinh tế Việt Nam từ khi mở cửa hội nhập quốc tế nhưng cũng là một cơ hội hết sức thuận lợi để Chính Phủ và NHNN có thể thực việc tái cấu trúc toàn diện nền kinh tế Việt Nam với 3 trọng tâm là tái cơ cấu đầu tư công, doanh nghiệp nhà nước và hệ thống ngân hàng.