Kinh nghiệm của các nước phát triển cho thấy, để ổn định tiền tệ và đặc biệt trong điều kiện hiện nay ở nước ta, nhiệm vụ kiềm chế lạm phát đang là yêu cầu bức thiết, Nhà nước phải sử dụng đồng bộ các giải pháp về kinh tế, tài chính - tiền tệ, trong đó, tăng cường huy động vốn trong dân qua hệ thống NHTM là giải pháp khá hữu hiệu. Thực tế cho thấy một nền kinh tế phát triển ổn định và bền vững khi nguồn tiền để đầu tư chủ yếu phải là từ tiết kiệm của dân chúng, tiết kiệm của nền kinh tế.
Thứ nhất, Vốn là cơ sở để ngân hàng tổ chức mọi hoạt động kinh doanh.
Vốn là điều kiện bắt buộc để ngân hàng có được giấy phép tổ chức và hoạt động trước khi nó có thể huy động được những khoản tiền gửi đầu tiên. Một ngân hàng mới luôn cần vốn ban đầu để mua đất, xây dựng cơ sở hạ tầng, trang bị những điều kiện làm việc, thuê nhân viên. Đặc trưng của hoạt động ngân hàng, vốn không chỉ là phương tiện hoạt động kinh doanh chính mà còn là đối tượng kinh doanh chủ yếu của ngân hàng thương mại. Ngân hàng là tổ chức kinh doanh loại hàng hoá đặc biệt trên thị trường tiền tệ (thị trường vốn ngắn hạn) và thị trường chứng khoán (thị trường vốn dài hạn). Những ngân hàng trường vốn là những ngân hàng có thế mạnh trong kinh doanh. Chính vì thế, có thể nói: Vốn là điểm đầu tiên trong chu kỳ kinh doanh của ngân hàng. Do đó, ngoài vốn ban đầu cần thiết thì ngân hàng phải thường xuyên chăm lo tới việc tăng trưởng vốn trong suốt quá trình hoạt động kinh doanh của mình.
Thứ hai, Vốn quyết định quy mô hoạt động tín dụng và các hoạt động khác của ngân hàng.
Vốn của ngân hàng quyết định tới việc mở rộng hay thu hẹp khối lượng tín dụng. Thông thường, nếu so với các ngân hàng lớn thì các ngân hàng nhỏ có các khoản mục đầu tư và cho vay kém đa dạng, phạm vi và khối lượng cho vay của các ngân hàng cũng nhỏ hơn. Trong khi các ngân hàng lớn cho vay được thì tại thị trường trong vùng, thậm chí trong nước và cả quốc tế, các ngân hàng nhỏ lại bị giới hạn trong phạm vi hẹp, mà chủ yếu là trong cộng đồng. Thêm vào đó, do khả năng vốn hạn hẹp nên các ngân hàng nhỏ không có phản ứng nhạy bén được với sự biến động của lãi suất trên thị trường, gây ảnh hưởng đến khả năng thu hút vốn đầu tư từ
các tầng lớp dân cư và các thành phần kinh tế. Vốn tạo niềm tin cho công chúng và là sự đảm bảo với các chủ nợ về sức mạnh tài chính của ngân hàng và đảm bảo với những người đi vay rằng ngân hàng có thể đáp ứng các nhu cầu tín dụng của họ ngay cả trong điều kiện nền kinh tế đang gặp khó khăn.
Thứ ba, Vốn quyết định năng lực thanh toán, năng lực cạnh tranh và đảm bảo uy tín của ngân hàng trên thương trường.
Thật vậy, để tồn tại và ngày càng mở rộng quy mô hoạt động trong nền kinh tế thị trường, đòi hỏi các ngân hàng phải có uy tín. Uy tín đó phải được thể hiện trước hết ở khả năng sẵn sàng thanh toán chi trả cho khách hàng của ngân hàng. Khả năng thanh toán của ngân hàng càng cao thì vốn khả dụng của ngân hàng càng lớn. Vì vậy, loại trừ các nhân tố khác, khả năng thanh toán của ngân hàng tỷ lệ thuận với vốn của ngân hàng nói chung và với số vốn khả dụng của ngân hàng nói riêng. Với tiềm năng vốn lớn, ngân hàng có thể hoạt động kinh doanh với qui mô ngày càng mở rộng, tiến hành các hoạt động cạnh tranh có hiệu quả nhằm vừa giữ được chữ tín, vừa nâng cao thanh thế của ngân hàng trên thương trường.
Có thể bạn quan tâm!
- Hoạt động huy động vốn tại Ngân hàng Liên doanh Lào Việt - 1
- Hoạt động huy động vốn tại Ngân hàng Liên doanh Lào Việt - 2
- Khái Niệm Cơ Bản Về Vốn Của Ngân Hàng Thương Mại
- Kinh Nghiệm Và Bài Học Kinh Nghiệm Về Huy Động Vốn Tại Một Số Ngân Hàng Tmcp
- Một Vài Nét Về Hoạt Động Và Kết Quả Của Ngân Hàng Liên Doanh Lào Việt
- Thực Trạng Cơ Cấu Huy Động Vốn Của Ngân Hàng Liên Doanh Lào Việt
Xem toàn bộ 94 trang tài liệu này.
Vốn cung cấp năng lực tài chính cho sự tăng trưởng và phát triển các hình thức dịch vụ mới, cho những chương trình và trang thiết bị mới. Khi một ngân hàng phát triển nó cần vốn bổ sung để thúc đẩy tăng trưởng và chấp nhận rủi ro gắn với sự ra đời các dịch vụ mới. Bổ sung vốn sẽ cho phép ngân hàng mở rộng trụ sở, xây dựng thêm những văn phòng chi nhánh để theo kịp sự phát triển của thị trường và tăng cường chất lượng phục vụ khách hàng.Vốn được xem như một phương tiện điều tiết sự tăng trưởng, giúp đảm bảo rằng sự tăng trưởng của một ngân hàng có thể được duy trì, ổn định và lâu dài.
1.3. Các hình thức huy động vốn của Ngân hàng thương mại
1.3.1. Huy động vốn chủ sở hữu Nguồn bên ngoài:
- Phát hành cổ phiếu thường:
Ưu điểm: Không phải hoàn trả cho người mua cổ phiếu, cổ tức của cổ phiếu thường không phải là gánh nặng về tài chính cho ngân hàng trong những năm làm ăn thua lỗ. Phương pháp này làm tăng quy mô vốn nên cũng làm tăng khả năng vay
nợ của ngân hàng trong tương lai.
Nhược điểm: Chi phí cao và có thể làm loãng quyền sở hữu ngân hàng, giảm mức cổ tức trên mỗi cổ phiếu, làm giảm tỷ lệ đòn bẩy tài chính mà ngân hàng có thể tận dụng.
Tỷ lệ đòn bẩy tài chính = Vốn cơ bản/Tổng tài sản = (Giá trị sổ sách của cổ phiếu thường + Cổ phiếu ưu đãi + Thu nhập từ các công ty con)/Tổng tài sản
- Phát hành cổ phiếu ưu đãi :
Ưu điểm: Không phải hoàn trả vốn và không làm phân tán quyền kiểm soát ngân hàng, tăng khả năng vay nợ của ngân hàng trong tương lai.
Nhược điểm: Cổ tức phải trả cho các cổ đông là gánh nặng tài chính trong những năm ngân hàng bị thua lỗ, chi phí phát hành cao, giảm mức cổ tức trên mỗi cổ phiếu.
Ngân hàng còn có thể thực hiện các biện pháp tăng vốn từ nguồn bên ngoài khác như bán tài sản và thuê lại, chuyển đổi chứng khoán nợ thành cổ phiếu...
Nguồn bên trong:
Chủ yếu do tăng lợi nhuận giữ lại. Đây là lợi nhuận ngân hàng đạt được trong năm, nhưng không chia cho các cổ đông mà giữ lại để tăng vốn.
Ưu điểm: Không tốn kém chi phí, không làm loãng quyền kiểm soát ngân hàng và không phải hoàn trả. Phương pháp này giúp ngân hàng không phụ thuộc vào thị trường vốn nên tránh được chi phí huy động vốn.
Hạn chế: Chỉ áp dụng với các ngân hàng lớn, làm ăn có lãi liên tục và đều đặn.
1.3.2. Huy động tiền gửi từ tổ chức kinh tế, cá nhân
Ngân hàng huy động bằng cách cung ứng nhiều loại tiền gửi khác nhau về kỳ hạn, hình thức trả lãi…cho khách hàng lựa chọn. Mỗi công cụ huy động tiền gửi mà ngân hàng đưa ra đều có những đặc điểm riêng nhằm đáp ứng các nhu cầu đa dạng của khách hàng trong việc tiết kiệm, thanh toán. Theo đối tượng khách hàng thì vốn tiền gửi của NHTM gồm tiền gửi của tổ chức kinh tế, tiền gửi của dân cư và tiền gửi khác.
* Tiền gửi của tổ chức kinh tế: trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, các tổ chức kinh tế thường có một bộ phận vốn nhàn rỗi tạm thời: khấu hao đã trích nhưng chưa đến lúc sử dụng, các quỹ đầu tư, phát triển…Nhằm đảm bảo khả năng
an toàn và sinh lời của đồng vốn, họ có thể gửi chúng vào ngân hàng. Bên cạnh đó, các tổ chức kinh tế thường xuyên có các giao dịch mua, bán hàng hoá với nhiều đối tác khác nhau việc thanh toán thông qua ngân hàng vừa đảm bảo an toàn vừa đảm bảo thời gian. Thông thường thì các tổ chức kinh tế gửi tiền vào ngân hàng dưới hai hình thức là tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi có kỳ hạn.
* Tiền gửi của dân cư: đây là một bộ phận thu nhập của người dân gửi vào ngân hàng nhằm mục đích tiết kiệm, sinh lời và thanh toán. Tiền gửi của dân cư bao gồm tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi không kỳ hạn:
Tiền gửi của dân cư có đặc điểm là phân tán nhưng quy mô lớn, nguồn này luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng vốn huy động của ngân hàng. Nhằm khai thác có hiệu quả nguồn này, các ngân hàng luôn đa dạng hoá các hình thức huy động: huy động bằng vàng, huy động tiền gửi có đảm bảo bằng vàng…
* Tiền gửi khác: tiền gửi của các tổ chức tín dụng khác, tiền gửi của Kho bạc nhà nước, tiền gửi của các tổ chức đoàn thể xã hội…các nguồn vốn này chiếm tỷ trọng không lớn trong tổng nguồn, mục đích chủ yếu là thanh toán.
1.3.3. Huy động vốn qua thị trường vốn
Khi tiến hành hoạt động kinh doanh, NHTM luôn có tình trạng tạm thời thừa và thiếu vốn, tức là có thể huy động vốn nhưng chưa cho vay hết, cũng có thể do khách hàng rút tiền trước thời hạn trong khi vốn cho vay chưa đến hạn thu hồi. Khi thiếu vốn NHTM đi vay trên thị trường liên ngân hàng. Các ngân hàng đang có dự trữ vượt quá do sự gia tăng bất ngờ của các khoản tiền huy động hoặc giảm cho vay có thể cho các NHTM đang thiếu hụt dự trữ , đang thiếu vốn để đảm bảo khả năng thanh toán…để tìm kiếm mức lãi suất cao hơn trên thị trường liên ngân hàng nhằm thu lợi nhuận. Tuy nhiên, nhược điểm của nguồn vốn này là chi phí huy động vốn lớn do ngân hàng vay phải trả lãi suất cao, các NHTM thừa vốn thường không muốn cho vay, đặc biệt là các ngân hàng đối thủ cạnh tranh.
1.3.4. Huy động bằng hình thức đi vay
Bên cạnh các phương thức đi vay trên thì các NHTM còn vay trên thị trường vốn như phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu, kỳ phiếu…
Việc phát hành các loại chứng khoán này giúp cho ngân hàng có được nguồn
vốn trung và dài hạn vì ngân hàng chỉ sử dụng một phần vốn ngắn hạn từ nguồn tiền gửi để đáp ứng nhu cầu, mở rộng cho vay trung và dài hạn. Bên cạnh đó, ngân hàng có thể chủ động phát hành về số lượng huy động, thời hạn, lãi suất, do đó ngân hàng có thể chủ động tính toán kế hoạch tài chính cho ngân hàng. Nhìn chung phát hành giấy tờ có giá về cơ bản cho nguồn vốn ổn định, chi phí khá thấp, đây là lợi thế của các Ngân hàng. Tuy nhiên, trong huy động vốn dưới hình thức phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu ngân hàng, các NHTM phải trả lãi suất cao hơn so với lãi suất tiền gửi huy động vốn. Nghiệp vụ này chỉ được tiến hành khi ngân hàng thiếu vốn mà vốn chủ và vốn huy động tiền gửi không đủ. Như vậy, khi thực hiện huy động vốn dưới các hình thức này, các ngân hàng phải căn cứ vào đầu ra để quyết định về khối lượng vốn huy động, mức lãi suất và thời hạn, phương pháp huy động. Vốn này chỉ được huy động trong một thời gian nhất định, khi đã huy động đủ khối lượng vốn theo dự kiến các ngân hàng sẽ ngừng việc huy động kỳ phiếu, trái phiếu.
Sau cùng ngân hàng sẽ đi vay NHTW vì không phải lúc nào cũng vay được của NHTW và luôn phải chịu sự kiểm soát chặt chẽ của NHTW.
Tuỳ theo mục đích sử dụng và hình thức vay vốn, vốn vay NHTW được chia thành các loại: (i) vốn vay ngắn hạn bổ sung, (ii) vay để thanh toán và (iii) vay tái cấp vốn.
- Vốn vay ngắn hạn bổ sung: là hình thức các NHTM xin vay vốn bổ sung vốn ngắn hạn của mình. Trong hình thức vay này, các NHTM chỉ được khi còn hạn mức tín dụng và trong phạm vi hạn mức tín dụng mà ngân hàng đã thoả thuận.
- Vốn vay để thanh toán: các NHTM vay NHTW nhằm thực hiện công tác thanh toán giữa các ngân hàng để bù đắp thiếu hụt tạm thời trong thanh toán (thời hạn vay loại này thường ngắn).
- Tái cấp vốn: NHTW có cho NHTM vay trên cơ sở chứng từ có giá. Các chứng từ này phải là các chứng từ có chất lượng, tức là phải thoả mãn những điều kiện: hợp pháp, hợp lệ, đảm bảo an toàn. Tái cấp vốn bao gồm hai hình thức: (1) Cho vay tái chiết khấu; Và (2) Cho vay có đảm bảo.
Cho vay tái chiết khấu: NHTW nhận các chứng từ có giá mà các NHTM đã chiết khấu trước đây để thực hiện các nghiệp vụ giống như các NHTM đã làm. Tuy
nhiên, việc cho vay tái chiết khấu đối với các NHTM đã được giới hạn trong mức cho phép (hạn mức tái chiết khấu) để thực hiện chính sách tiền tệ của nhà nước.
Cho vay có đảm bảo: là hình thức các NHTM đem các chứng từ có giá đến NHTW để làm đảm bảo xin vay vốn. Căn cứ trên tổng mệnh giá của các chứng từ có giá làm đảm bảo, NHTW sẽ cho vay theo một tỷ lệ nhất định tuỳ theo sự quản lý của nhà nước.
Vốn vay NHTW là quan hệ giữa các NHTM với NHTW nằm trong sự điều tiết của chính sách tiền tệ. Khi NHTW sử dụng công cụ thị trường mở, mua bán các kỳ phiếu, trái phiếu ngắn hạn, hệ thống ngân hàng thương mại phải chịu sự kiểm soát gắt gao của NHTW.
1.3.5. Nhận uỷ thác tài trợ
Trong quá trình làm trung gian thanh toán, NHTM cũng tạo được một khoản vốn gọi là vốn trong thanh toán: vốn trên tài khoản mở thư tín dụng, tài khoản tiền gửi séc bảo chi và các khoản tiền phong toả do ngân hàng chấp nhận các hối phiếu thương mại, các khoản tiền kí quỹ để mở L/C. Các khoản tiền được trích từ tài khoản này nhập vào tài khoản chờ sử dụng nên được coi là tạm thời nhàn rỗi.
Thông qua các nghiệp vụ đại lý, NHTM cũng thu hút được một lượng vốn đáng kể trong quá trình thu hoặc chi hộ khách hàng, làm đại lý cho các tổ chức tín dụng khác, nhận và chuyển vốn cho các khách hàng hay một dự án đầu tư. Do việc phát tiền được tiến hành theo tiến độ công việc, nên ngân hàng có thể sử dụng tạm thời số dư tài khoản vào kinh doanh.
Thông qua dịch vụ uỷ thác như uỷ thác cho vay, uỷ thác đầu tư, uỷ thác cấp phát, uỷ thác giải ngân… tạo nên nguồn uỷ thác tại ngân hàng.
Ngoài ra còn có các khoản nợ khác như thuế chưa nộp, lương chưa trả…Ngân hàng đều có thể sử dụng tạm thời.
1.4. Những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động huy động vốn của NHTM
1.4.1. Các nhân tố khách quan
- Lạm phát: làm giảm sức mua của đồng tiền. Lạm phát tác động tiêu cực đến việc huy động vốn của ngân hàng. Nó làm xói mòn giá trị sức mua lên mỗi đơn vị
tiền tệ. Ngân hàng chỉ có thể khắc phục tác động này bằng cách duy trì một mức lãi suất thực dương hoặc đảm bảo bằng một giá trị hiện vật (chẳng hạn như tiền gửi tiết kiệm được đảm bảo bằng vàng).
- Sự ổn định về chính trị: có tác động rất lớn vào tâm lý và niềm tin của người gửi tiền. Nền chính trị quốc gia ổn định, người dân sẽ tin tưởng gửi tiền vào hệ thống ngân hàng nhiều hơn, ngân hàng sẽ là cầu nối hữu hiệu giữa tiết kiệm và đầu tư.
- Môi trường kinh tế: được hiểu là các yếu tố như tốc độ tăng trưởng kinh tế, thu nhập quốc dân, tỷ lệ thất nghiệp, lạm phát... có ảnh hưởng rất lớn đến nguồn tiền gửi tại các NHTM. Môi trường kinh tế ổn định thì nguồn tiền gửi tại các ngân hàng sẽ được tăng cao. Ngược lại, nếu môi trường kinh tế không ổn định, nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội sẽ được chuyển thành các dạng đầu tư khác có giá trị ổn định và bền vững hơn như vàng, nhà đất...
- Sự thay đổi trong chính sách tài chính, tiền tệ và các qui định của Chính phủ, của NHNN cũng gây ảnh hưởng tới khả năng thu hút vốn và chất lượng nguồn vốn của các NHTM. Chính phủ Việt Nam đang được đánh giá là sử dụng các công cụ quản lý tài chính, tiền tệ ngày càng có hiệu quả hơn, thúc đẩy quá trình tiền tệ hoá nền kinh tế và gia tăng lượng tiền gửi của dân chúng vào hệ thống ngân hàng.
- Môi trường văn hoá: là các yếu tố quyết định đến các tập toán sinh hoạt và thói quen sử dụng tiền của người dân. Tuỳ theo đặc trưng văn hoá của mỗi quốc gia, người dân có tiền nhàn rỗi sẽ quyết định lựa chọn hình thức gữi tiền ở nhà, gửi vào ngân hàng hay đầu tư vào lĩnh vực khác. Ở các nước phát triển, việc thanh toán không dùng tiền mặt và sử dụng các dịch vụ ngân hàng đã khá quen thuộc, nhưng ở những nước đang phát triển như Việt Nam, người dân có thói quen giữ tiền hoặc tích trữ dưới dạng vàng, ngoại tệ mạnh... làm cho lượng vốn được thu hút vào ngân hàng còn hạn chế.
- Sự phát triển của công nghệ ngân hàng và các dịch vụ như máy rút tiền tự động ATM, thẻ tín dụng, hệ thống thanh toán điện tử... ngày càng tiện lợi, hoàn hảo sẽ giúp cho người gửi tiền, phương thức thanh toán không bằng tiền mặt được sử dụng phổ biến hơn, qua đó cung cấp một lượng vốn đáng kể cho ngân hàng.
1.4.2. Các nhân tố chủ quan
Nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động huy động vốn của NHTM quan trọng nhất là Lãi suất cạnh tranh:
Lãi suất là một trong những biến số chủ chốt, cơ bản mà ngân hàng có thể tác động vào thị trường vốn, tác động vào các đối tượng khách hàng gửi tiền khác nhau đặc biệt trong cơ chế thả nổi lãi suất như hiện nay. Định giá nguồn vốn huy động là tiền gửi là một việc làm quan trọng và khá phức tạp đối với các nhà quản trị ngân hàng. Nếu ngân hàng phải trả một mức lãi suất lớn để thu hút và duy trì sự ổn định lượng tiền gửi của khách hàng thì phải chịu áp lực về gia tăng chi phí, giảm lợi nhuận. Tuy nhiên, trước sự cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng, việc duy trì lãi suất tiền gửi cạnh tranh là điều khó tránh khỏi. Các ngân hàng cạnh tranh với nhau để thu hút nguồn vốn tiền gửi không chỉ với các ngân hàng khác mà còn với các tổ chức tiết kiệm, với các công cụ của thị trường vốn (trái phiếu, kỳ phiếu, cổ phiếu).
Hiện nay, chính phủ hầu hết các nước đã loại bỏ lãi suất trần đối với NHTM. Lúc này, việc xây dựng mức lãi suất cạnh tranh ngày càng trở nên thiết yếu; nghĩa là mỗi dịch vụ liên quan đến tiền gửi thường được định giá sao cho khoản thu đủ bù đắp tất cả phần lớn chi phí cho việc cung cấp dịch vụ đó.
Các yếu tố chủ quan khác ảnh hưởng đến hoạt động huy động vốn của NHTM là:
- Tính chất sở hữu của ngân hàng: Yếu tố này có ảnh hưởng trực tiếp đến mô hình quản lý, cơ chế quản lý và chiến lược kinh doanh của các ngân hàng từ đó ảnh hưởng đến hoạt động tạo lập và quản lý các nguồn vốn. Ở Việt Nam trong những năm gần đây tác động của yếu tố này khá rõ nét.
- Chiến lược kinh doanh của ngân hàng: NHTM cần phải xác định rõ những điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức của ngân hàng mình nhằm định vị được chỗ đứng hiện tại của ngân hàng, đồng thời có những dự đoán sự thay đổi của môi trường để xây dựng chiến lược kinh doanh phù hợp, trong đó phát triển quy mô và chất lượng nguồn vốn là một bộ phận quan trọng.
- Quy mô vốn chủ sở hữu: Vốn chủ sở hữu được coi là đệm chống đỡ sự sụt giảm giá trị tài sản của NHTM. Để đảm bảo mức độ an toàn tối thiểu, cần có quy