Cơ Sở Vật Chất Kỹ Thuật Và Thiết Bị Hạ Tầng


Trong tổng số hơn 2.700 đảo lớn nhỏ ven bờ, nhiều hòn đảo như Cái Bầu, Cát Bà, Tuần Châu, Cù Lao Chàm, Phú Quý, Côn Đảo, Phú Quốc... với các hệ sinh thái phong phú, cảnh quan đẹp là nơi có điều kiện hình thành các khu, điểm du lịch hấp dẫn.

Là một nước có khoảng 50.000 km2 địa hình vùng núi đá vôi, Việt Nam được xem là nước có tiềm năng du lịch hang động, thác, nghềnh to lớn, trong đó có hơn 200 hang


động đã được phát hiện, điển hình là động Phong Nha với chiều dài gần 8km được đề

nghị UNESCO công nhận là di sản văn hoá thế giới.

Nguồn nước khoáng của nước ta phong phú có ý nghĩa rất to lớn đối với phát triển du lịch. Đến nay đã phát hiện được hơn 400 nguồn nước khoáng tự nhiên với nhiệt độ từ 27 - 105 độ C. Thành phần hoá học nước khoáng rất đa dạng, từ bicabonat natri đến clorua natri với độ khoáng hoá cao có giá trị đối với du lịch nghỉ dưỡngchữa bệnh.

Việt Nam có hệ sinh thái động thực vật rừng đa dạng. Tính đến năm1999 trên phạm vi cả nước đã có 107 khu rừng đặc dụng trong đó có 11 vườn quốc gia, 61 khu bảo tồn thiên nhiên và 34 khu rừng văn hoá lịch sử môi trường với tổng diện tích là

2.092.466 ha. Đây là nguồn tài nguyên du lịch sinh thái quý giá, nơi bảo tồn khoảng

12.000 loài thực vật, gần 7.000 loài động vật với nhiều loài đặc hữu và quý hiếm, trong đó có vườn quốc gia Ba Bể với hồ thiên nhiên được đánh giá vào loại lớn trên thế giới đang được đề nghị UNESCO xét đưa vào danh mục di sản thiên nhiên thế giới.

Nước ta có tài nguyên du lịch nhân văn phong phú với lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước. Trong số khoảng 40.000 di tích có hơn 2000 di tích được nhà nước chính thức xếp hạng. Trong đó quần thể di tích triều Nguyễn ở cổ đô Huế (Thừa Thiên Huế); đô thị cổ Hội An, di tích Mỹ Sơn (Quảng Nam) đã được UNESCO công nhận là di sản văn hoá thê giới.


Ngoài các di tích văn hoá, lịch sử, cách mạng, nhiều nghề thủ công truyền thống với kỹ năng độc đáo, nhiều lễ hội gắn liền với các sinh hoạt văn hoá văn nghệ dân gian đặc sắc của cộng đồng 54 dân tộc cùng với những nét riêng, tinh tế của nghệ thuật ẩm thực được hoà quyện, đan xen trên nền kiến trúc phong cảnh có giá trị triết học phương Đông, đã tạo cho Du lịch Việt Nam có nhiều điều kiện khai thác thế mạnh về du lịch - văn hoá - lịch sử.

Nhìn chung, tài nguyên Việt Nam vừa phân bố tương đối đồng đều trong toàn quốc, vừa tập trung thành từng cụm gần các đô thị lớn, các trục giao thông quan trọng thuận


tiện cho việc tổ chức khai thác, hình thành các tuyến du lịch bổ sung cho nhau giữa các vùng, có giá trị sử dụng cho mục đích du lịch và sức hấp dẫn khách cao.

Bảng 12: Tóm tắt các sản phẩm du lịch ở Việt Nam



Hiện có

Tiềm năng

Chỗ ở và thức ăn:



Các loại khách sạn

X


Các phương tiện hội họp


X

Điểm cắm trại


X

Tàu thuỷ, Nhà thuyền


X

Nhà hàng, cửa hàng và chợ địa phương

X


Các phương tiện đi lại



Máy bay

X


Tàu hoả


X

Ô tô cho thuê

X


Công ty xe buýt

X


Thuyền


X

Các cơ quan du lịch

X


Nhà đIều hành du lịch

X


Các điểm thu hút



Địa danh lịch sử

X


Địa điểm văn hoá

X


Công viên quốc gia

X


Sân Gôn


X

Lặn có bình khí nén

X


Lướt ván nước


X

Hàng thủ công


X

Công viên động vật


X

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 100 trang tài liệu này.

Hoạt động của Du lịch Quốc tế ở Việt Nam - 9


Công viên giải trí


X

Giải trí (Khiêu vũ, Karaoke,…)

X


Nơi nghỉ mát ở biển



Nơi nghỉ mát ở vùng cao

X


Các hoạt động khác: đi bộ, đạp xe

X


Các lễ hội văn hoá


X

Nguồn: Tổng cục Du lịch Việt Nam


1.3 Dân cư và lao động

Đây là một nguồn lực để phát triển du lịch, nguồn cung cấp lao động cho ngành du lịch, là thị trường tiêu thụ sản phẩm du lịch. Với nước ta, dân số đông, gần 80 triệu người: tháp dân số trẻ, độ tuổi lao động chiếm tỷ lệ cao (khoảng 40 triệu lao động). lao động nước ta cần cù, thông minh, có nhiều kinh nghiệm trong sản xuất, học vấn


ngày càng cao, tạo nên những thuận lợi cơ bản để phát triển du lịch. Nguồn thị trường sức lao động nước ta rất đỗi rồi dào. Mặt khác, nhân dân ta nói chung, lao động nước ta nói riêng vốn sinh ra và lớn lên trong một dân tộc có truyền thống lịch sử và bề dày văn hoá: yêu nước, nhân hậu, chịu khó, chịu thương, chung thuỷ, lịch thiệp... Đặc biệt coi trọng thuần phong mỹ tục, đối nhân xử thế thấu tình đạt lý, lấy chữ “tín” làm trọng, coi trọng “nhân - lễ - nghĩa - trí - tín”... Đó là một tiềm năng để phát triển du lịch. Bởi lẽ lao động du lịch là lao động làm thoả mãn nhu cầu thẩm nhận, giao tiếp của con người, của khách du lịch. Không có vốn ứng xử - đối nhân xử thế một cách lịch thiệp để vừa đam bảo thông lệ quốc tế, vừa mang bản sắc dân tộc không thể có chất lượng cao trong nghề du lịch. Điều này là đặc biệt quan trọng đối với người làm hướng dẫn viên du lịch và lễ tân khách sạn, nhà hàng.

Lao động nước ta có kinh nghiệm, tay nghề cao trong sản xuất và các mặt hàng thủ công mỹ nghệ truyền thống và mặt hàng ăn uống, tạo ra những sản phẩm độc đáo, đặc sắc như: hnàg thổ cẩm, mây tre đan, tranh tượng, món ăn đồ uống dân tộc. Ngoài ra, nước ta còn có một bộ phận lao động với học vấn cao, đa ngành như sử học, dân


tộc học, khảo cổ, kinh tế, kiến trúc, địa lý, hải dương... rất thuận lợi để phát triển du lịch.

1.4 Cơ sở vật chất kỹ thuật và thiết bị hạ tầng

Đây là một nguồn lực, một điều kiện không thể thiếu để phát triển du lịch. Cơ sở vật chất - kỹ thuật và thiết bị hạ tầng tốt, đồng bộ tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển du lịch. Ngược lại, sẽ gây khó khăn, làm chậm bước phát triển. Cơ sở vật chất kỹ thuật thiết bị hạ tầng ở Việt Nam bao gồm:

Mạng lưới giao thông vận tải: đường hàng không, đường biển, đường sắt, đường bộ… với các thiết bị sân bay, bến cảng, máy bay, tầu biển, tàu hoả, ôtô… hệ thống khách sạn để phát triển du lịch đang từng bước được cải thiện. Cơ sở vật chất kỹ thuật - thiết bị hạ tầng để phát triển du lịch dang từng bước được cải thiện. Mạng lưới hàng không của Việt Nam đã vươn đến những thành phố của đất nước nước và nhiều nước trên thế giới. Mạng lưới đường bộ xuyên khắp đất nước, trong đó mạng lưới đường bộ các tỉnh


phía Nam tương đối đồng bộ, số lượng km đường đã được trải nhựa, phẳng, đều bền chắc chiếm tỷ lệ lớn. Ở các tỉnh phía Bắc, nhiều trục đường đã, đang và sẽ được nâng cấp. Nhiều con đường của ta nập nghềnh uốn khúc trong thiên nhiên xanh của các dải núi rừng, hoặc đồng quê nhiệt đới, chạy dọc ven biển, ven sông.. . rất thú vị cho khách du lịch. mạng lưới dường biển thông thương với các nước trong khu vực và thế giới như cảng Hải Phòng, Đà nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh, Cửa Lò...về đường sắt, nước ta hiện có tuyến đường sắt xuyên Việt, tuyến liên vận quốc tế Việt - Trung, ngoài ra có nhiều tuyến nối liền các tỉnh... Đó là điều kiện thuận lợi để vận chuyển khách du lịch.

Về hệ thống cung cấp điện nước, trong những năm gần đây, mạng lưới cung cấp điện cho du lịch dần được cải thiện, đặc biệt là sau khi nhà máy thuỷ điện Hoà Bình và đường dây 500 KW được đưa vào sử dụng. Mạng lưới thông tin liên lạc có những


bước tiến nhảy vọt, tạo nên những thuận lợi cho kinh doanh du lịch. Ta đã hoà nhập được với mạng lưới thông tin quốc tế. Tất cả các tỉnh thành trong cả nước đều có thể liên lạc được với nhau bằng hệ thống điện thoại, fax, và có thể liên lạc được với nhiều nước trên thế giới.

Nói đến cơ sở vật chất thiết bị hạ tầng ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển du lịch không thể không nói đến những hệ thống khách sạn nhà hàng và các cơ sở vui chơi giải trí. Hệ thống khách sạn nhà hàng ở Việt Nam đang tăng mạnh để phục vụ nhu cầu ăn nghỉ của khách du lịch. Các khách sạn ở Hà Nội có Sofitel Metropole, Sofitel Plaza, Melia, Hilton, Daewoo, Nikko, Horison (5 sao), Sunway, Goumann, Bảo Sơn (4 sao). Hồ Chí Minh có New World, Sofitel Plaza Sài Gòn, Renessance River Side, Sheraton, Legend. Tại những khách sạn loại tốt này ở Việt Nam, trang thiết bị nội thất và chất lượng được du khách đánh giá đạt tiêu chuẩn quốc tế. Ngoài ra có nhiều nhà hàng được mở ra phục vụ nhu cầu của khách muốn thưởng thức những món ăn thuần tuý đặc trưng của dân tộc Việt Nam như nhà hàng Indochine (phố Nam Ngư), Le Ton Kin (phố Trần Quốc Toản), Emperor (phố Lê Thánh Tông), Chả Cá Lã Vọng (phố


Chả Cá), Cơm Niêu lâm Viên… Đến những nơi này, du khách có thể thưởng thức những món ăn đặc sắc Âu, Á mà còn

được thưởng thức ẩm thực Việt Nam để hiểu biết thêm và gắn bó với văn hoá Việt Nam.

Nhà hàng và địa điểm phục vụ du lịch ngày càng nhiều và đa dạng với trang thiết bị hiện đại, đầu bếp được đào tạo chuyên nghiệp, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của của du khách đến với Việt Nam.

1.5 Đường lối chính sách phát triển du lịch của Chính phủ

Tiềm năng của du lịch Việt Nam được nhân lên khi đất nước vững và phát triển kinh tế, từng bước vượt qua thách thức, nắm bắt được thời cơ vận hội, ổn định và phát

67


triển, giành được những thắng lợi ban đầu quan trọng trong công cuộc đổi mới để bước vào thời kỳ xây dựng đất nước theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Chính sách đối ngoại rộng mở, đa dạng hoá đa phương hoá, kết bạn với tát cả các nước vì mục đích chung, vì hoà bình, ổn định và phát triển. Việt Nam là thành viên chính thức của ASEAN, ký hiệp định khung với EU, Hiệp định Thương mại Việt Mỹ. Đây là những điều kiện quan trọng để Việt Nam phát triển du lịch, thuận lợi trong hội nhập với du lịch khu vực và thế giới.

Cùng với việc đổi mới, Đảng và Nhà nước hết sức quan tâm đến phát triển du lịch. Đường lối chính sách phát triển du lịch của nước ta đã được chỉ rõ tại Đại Hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, phát triển ở Đại hội VII, VIII, và cụ thể hoá bằng nghị quyết 45/CP của Chính phủ: và đặc biệt là Quốc Hội đã ban hành Pháp lệnh Du lịch làm cơ sở pháp lý cho ngành Du lịch Việt Nam. Pháp lệnh đã khẳng định vị trí quan trọng của du lịch trong nền kinh tế quốc dân. Xác định phương hướng mục tiêu phát triển du lịch Việt Nam, chỉ rõ những chủ chương và biện pháp để hoàn thành mục tiêu đó, quan điểm chỉ đạo là:

- Du lịch là một ngành kinh tế quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội, góp phần thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.


- Hoạt động mang tính chất liên ngành, liên vùng và xã hội hoá cao.

- Đẩy mạnh phát triển du lịch quốc tế, coi đó là một hướng chiến lược, đồng thời chú trọng phát triển du lịch nội địa làm cơ sở cho sự phát triển bền vững.

1.6 Nguồn lực bên ngoài

Sau nhiều năm cố gắng và thắng lợi tren thị trường quốc tế cạnh tranh, Việt Nam đã nhận được sự ủng hộ của một số thị trường lớn quan trọng như:

Thị trường Trung Quốc:

Trong những năm gần đây, lượng khách du lịch của Trung Quốc tăng rất nhanh, năm 2001 đạt con số: 672.846 ngàn người, năm 2002 đạt 724.385 ngàn.


Do hai nước có mối quan hệ làng giềng, gần về địa lý, có nền văn hoá tương đồng. Hơn nữa, Việt Nam đã áp dụng chế độ thẻ du lịch cho công dân Trung Quốc vào Việt Nam qua cửa khẩu đường bộ và đường biển tới các tỉnh: Cao Bằng, lạng Sơn, Lào Cai, Hà Giang, Quảng Ninh, Hải Phòng và Hà Nội. Lượng khách đi qua biên giới từ Trung Quốc, Lào và Campuchia rất đông, chiếm 34% tổng số khách đến Việt Nam năm 1999. Nhưng hiện tại, do dịch SARS hoành hành và lây lan mạnh ở Trung Quốc, Việt Nam tạm thời không cấp thị thực cho những người đến từ vùng dịch. Nhưng xét về mặt lâu dài, thị trường này là thị trường lớn đối với Việt Nam nên cần được nghiên cứu để duy trì sự phát triển.

1.7 Thị trường Nhật Bản, ASEAN và một số thị trường truyền thống khác

Khu vực thị trường ASEAN cũng gần về mặt địa lý, nằm trong tổ chức các nước Đông Nam Á, hơn nữa văn minh tập quán cũng có nét tương đồng của người Phương Đông.

Mặc dù phải chịu tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực, các nước ASEAN (đạt tổng cộng 269.448 ngàn người năm 2002) vẫn là nơi có tiềm năng du lịch to lớn, có mức tăng trưởng hàng năm tương đối cao. Các nước có số khách du lịch đứng đầu vào Việt Nam năm 2002 là: Campuchia: 69.538 khách, Malaysia:

46.086 khách, Thái Lan: 40.999 khách…


Mở rộng khai thác thị trường này, không những giúp cho Việt Nam phát triển bền vững trước sự cạnh tranh gay gắt giữa các nước trong khu vực mà còn giúp toàn bộ khối ASEAN tìm ra một hướng đi chung khắc phục tình trạng giảm sút lượng khách nước ngoài vào khu vực đồng thời tăng doanh thu du lịch cho thu nhập người dân được cao hơn. Việt Nam tham gia Hiệp hội Lữ hành Châu Á Thái Bình Dương PATA (1990) và Hiệp hội du lịch các nước Đông Nam Á (1995) là một hướng đi đúng trong tiến trình xúc tiến mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế.


Thị trường Nhật Bản

Thị trường Nhật Bản là thị trường đầy tiềm năng. Mặc dù phải chịu tác động trực tiếp của cuộc khủng hoảng kinh tế, Nhật Bản vẫn nằm trong nhóm 10 nước dẫn đầu khu vực Đông Nam Á Thái Bình Dương về đón khách quốc tế. Trước đây khách du lịch Nhật bản có xu hướng đi du lịch Châu Âu, ngày nay để tiết kiệm chi phí và thời gian cho du lịch mà vẫn có được cảm giác thoải mái, người Nhật đã có xu hướng chuyển sang đi du lịch các nước trong khu vực. Năm 1999: tổng số khách Nhật Bản đến Việt Nam là: 113.514, năm 2002: 279.769, tính riêng Quý I năm 2003 đã có: 82.200 lượt khách. Hiện nay, mối quan hệ kinh tế chính trị giữa hai nước đang phát triển rất tốt đẹp, là nước đứng đầu về đầu tư trực tiếp FDI vào Việt Nam, nên số khách thương vụ đến với Việt Nam rất nhiều. Việc hai nước mở đường bay trực tiếp càng gia tăng lượng khách Nhật đến với Việt Nam. Tuy nhiên, năm 2003, SARS chắc chắn sẽ làm giảm mọi lượng khách, nhưng về lâu dài Nhật Bản vẫn sẽ duy trì là thị trường tiềm năng, việc tạo mọi điều kiện đầu tư vào cơ sở hạ tầng để giữ và thu hút khách Nhật là một công việc quan trọng.

Thị trường Châu Âu và Châu Mỹ

Đây là khu vực có nền kinh tế phát triển hàng đầu thế giới, thu nhập và các ưu đãi cũng như phúc lợi xã hội cho mỗi cá nhân rất cao. Với điều kiện như vậy, Châu Âu luôn dóng vai trò là nguồn du khách của cả thế giới.


Sau những bất ổn về chính trị ở các nước Châu Á khác, thị trường này đã di chuyển sang Việt Nam khá lớn, vì thế đã đem lại cho Việt Nam một năm 2002 thần kỳ. Anh, Pháp thường là những thị trường hàng đầu của khu vực này. năm 1999: Pháp có:

86.026 lượt khách đến Việt Nam, Anh: 43.863. Đến năm 2002, thị trường này đã có thêm một số nước Đức: (46.327 khách), Đan Mạch (11.815), Bỉ (10.325), Anh (69.682) và Pháp (111.546)...

Xem tất cả 100 trang.

Ngày đăng: 07/12/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí