nhân viên, học sinh đi đào tạo, bồi dưỡng ở nước ngoài. Các trường hợp du lịch được củng cố nhằm gắn công tác đào tạo với thực tiễn, đáp ứng yêu cầu phát triển du lịch trước mắt và lấu dài ở nước ta. Một nét mới trong công tác đào tạo của ngành là chú trọng giáo dục toàn dân về công tác du lịch để phát huy lòng hiếu khách của nhân dân, tạo môi trường cho du lịch phát triển.
Năm 1998 ngành đã đào tạo, bồi dưỡng nghề cho gần 3.000 người, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, ngoại ngữ và tin học cho hơn 700 cán bộ; tổ chức cho hơn 60 đoàn đi tham quan khảo sát, học tập ở nước ngoài; hợp tác với nước ngoài đào tạo trên 300 cán bộ về quản lý nhà nước, quản trị kinh doanh, nghiệp vụ du lịch và khách sạn; nhiều cán bộ có trình độ đại học và trên đại học đã được các viện nghiên cứu và các trường đại học trong nước đào tạo. Số lượng cán bộ khoa học, cán bộ quản lý trong ngành được đào tạo trên đại học cả các trung tâm đào tạo nghề có uy tín trên thế giới ngày càng tăng.
Đảm bảo cho sự tăng trưởng ổn định của ngành, trong giai đoạn 2002 – 2005, Du lịch Việt Nam kế hoạch đạt 3 - 3,5 triệu lượt khách du lịch quốc tế, thu nhập xã hội sẽ đạt gấp 2 lần năm 2000; giải quyết việc làm cho 220.000 lao động trực tiếp và 400.000 lao động gián tiếp. Thu nhập xã hội từ du lịch mỗi năm tăng khoảng 2000 - 2.500 tỷ đồng.
2.3 Cơ sở vật chất của ngành
Cơ sở vật chất kỹ thuật của ngành đã có một bước phát triển đáng kể. Trong mấy năm qua, tổng số vốn đầu tư trong nước và nước ngoài vào lĩnh vực khách sạn, du lịch tăng rất nhanh.
Nhiều khách sạn đã được cải tạo, nâng cấp và xây dựng mới, trong đó có nhiều khách sạn lớn đạt tiêu chuẩn từ 4 đến 5 sao đi vào hoạt động. Trong 222 khách sạn đã được thẩm định phân hạng từ 1 - 5 sao, có 48 khách sạn đạt tiêu chuẩn 3 sao trở lên.
Bảng 9: Số liệu về các cơ sở lưu trú cả nước năm 2002
Số lượng | Số phòng | |
Tổng | 3.267 | 72.504 |
Khách sạn | 1.940 | 53.026 |
Nhà nghỉ | 68 | 7.603 |
Biệt thự | 52 | 1.310 |
Làng du lịch | 11 | 357 |
Căn hộ cho thuê | 19 | 249 |
Bãi cắm trại | 08 | 83 |
Xếp hạng các khách sạn tính đến 11/2002 | ||
Xếp hạng từ 1- 5 sao cả nước | 850 | Chiếm 45% tổng số khách sạn toàn Ngành. |
Doanh thu cơ sở lưu trú: | Chiếm 65% - 75% doanh thu toàn Ngành. | |
Đầu tư hạ tầng và cơ sở vật chất - kỹ thuật | ||
Trong năm 2002: Chính phủ đã cấp 380 tỷ đồng đầu tư phát triển hạ tàng du lịch; Như vậy, tổng số vốn đầu tư cho lĩnh vực này trong 2 năm 2001, 2002: 646 tỷ đồng, tập trung cho 21 khu du lịch quốc gia thuộc 37 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung Ương. |
Có thể bạn quan tâm!
- Du Lịch Thế Giới Nhanh Chóng Ổn Định Và Hồi Phục
- Quá Trình Quốc Tế Hoá Đời Sống Kinh Tế Thế Giới
- Những Kết Quả Đạt Được Của Hoạt Động Du Lịch Quốc Tế
- So Sánh Giá Vé Đi Và Đến Giữa Việt Nam Và Thái Lan
- Cơ Sở Vật Chất Kỹ Thuật Và Thiết Bị Hạ Tầng
- Du Lịch - Ngành Kinh Tế Tổng Hợp Quan Trọng Mang Nội Dung Văn Hoá Sâu Sắc, Có Tính Liên Ngành, Liên Vùng Và Xã Hội Hoá Cao
Xem toàn bộ 100 trang tài liệu này.
Nguồn: Tổng cục Du lịch Việt Nam
Bảng 10: Số phòng khách sạn đạt tiêu chuẩn quốc tế
1992 | 1993 | 1994 | 1995 | 1996 | 2000 | 2010 | |
Số phòng | 13.055 | 16.845 | 21.051 | 26.000 | 31.200 | 55.760 | 135.200 |
Tốc độ tăng (%) | # | 29.0 | 25.0 | 23.5 | 20.0 | 15.6 | 9.3 |
Nguồn: Tổng cục Du lịch Việt Nam
Cũng trong thời gian qua, thực hiện Quyết định 317/TTg của Thủ Tướng Chính phủ, 496 nhà khách, nhà nghỉ với tổng số 12.117 phòng đã chuyển dang kinh doanh khách sạn (đạt 80% tổng số phòng nhà khách, nhà nghỉ cả nước), trong đó có 295 nhà khách, nhà nghỉ đã thành lập doanh nghiệp khách sạn hoặc sáp nhập vào một doanh nghiệp nhà nước có bổ xung kinh doanh nghề khách sạn.
Khách sạn tư nhân mọc lên khá nhiều, tuy phần lớn ở quy mô nhỏ, chỉ có một số quy mô trên dưới 100 phòng đạt tiêu chuẩn 2 đến 3 sao, nhưng cũng đã góp phần tăng
cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho ngành du lịch giải quyết được nhiều khó khăn đối với cơ sở lưu trú cho khách du lịch trong giai đoạn đầu của thời kỳ phát triển.
Tính đến nay, cả nước có 3.267 khách sạn và các cơ sở lưu trú khác, với 55.500 phòng khách sạn, trong đó có 28.000 phòng đạt tiêu chuẩn quốc tế, có thể đáp ứng được yêu cầu tăng trưởng khách quốc tế vào Việt Nam trong những năm trước mắt.
Hệ thống nhà hàng, phương tiện vận chuyển đang dần được hoàn thiện. Cả nước hiện đã có trên 3.000 xe ôtô du lịch các loại, 40 tàu và hàng trăm thuyền du lịch. Đã có nhiều đội tàu đường sắt được nâng cấp, rút ngắn thời gian chạy tàu Bắc - Nam để phục vụ khách đi lại thuận tiện. Nhiều tuyến bay được tăng thêm để đáp ứng yêu cầu của khách.
Chất lượng các sản phẩm du lịch từng bước được nâng cao. Số khu du lịch, cơ sở vui chơi, giải trí được cải tạo nâng cấp, xây dựng mới đưa vào khai thác ngày càng nhiều, với các loại hình sản phẩm du lịch phong phú và đa dạng: Du lịch biển và lặn biển, du lịch leo núi, du lịch hang động, du lịch thể thao, hưởng thụ khí hậu, du lịch xanh, du lịch đồng quê, du lịch ôn đới giữa mùa hè nhiệt đới ở vùng núi và cao nguyên... đặc biệt là du lịch văn hoá với những di tích văn hoá, lịch sử, những phong tục, lễ hội mang bản sắc dân tộc độc đáo.
2.4 Công tác Quy hoạch du lịch
Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt nam thời kỳ 1995 - 2010 đã được Chính phủ phê duyệt, và lãnh thổ du lịch Việt Nam được chia thành 3 vùng với những chi tiêu và sản phẩm du lịch đặc trưng:
Vùng du lịch Bấc Bộ, gồm 27 tỉnh và thành phố từ Hà Giang đến Hà Tĩnh, trung tâm của vùng là thủ đô Hà Nội, và tam giác động lực tăng trưởng du lịch là Hà Nội - Hải Phòng - Hạ Long, sản phẩm du lịch đặc trưng là du lịch văn hoá kết hợp với du lịch tham quan và nghiên cứu.
Vùng du lịch Bắc Trung Bộ, gồm 6 tỉnh và thành phố từ Quảng Bình cho đến Quảng Ngãi, trong đó Huế và Đà Nẵng là trung tâm đồng vị, với trục phát triển du lịch Huế - Đà Nẵng - Lao Bảo. Sản phẩm du lịch đặc trưng là du lịch tham quan các di tích lịch
sử cách mạng, di tích lịch sử - văn hoá kết hợp với du lịch biển, hang động, du lịch quá cảnh.
Vùng du lịch Nam Trung Bộ và Nam Bộ, gồm 28 tỉnh và thành phố, từ Kon Tum đến Minh Hải,với trung tâm là thành phố Hồ Chí Minh, và các tam giác tăng trưởng du lịch là thành phố Hồ Chí Minh - Nha Trang - Đà Lạt và tam giác tăng trưởng kinh tế - du lịch: Thành phố Hồ Chí Minh - Biên Hoà - Vũng Tàu. Các sản phẩm du lịch đặc trưng của vùng này là du lịch tham quan, nghỉ dưỡng biển và núi, du lịch sông nước, du lịch sinh thái đồng bằng châu thổ sông Cửu Long.
Dự án quy hoạch tổng thể phát triển du lịch ở 32 tỉnh thành phố đã được phê duyệt, trong đó có một số tỉnh đã xây dựng quy hoạch du lịch tới quận, huyện, xã, thị xã. Nhiều dự án quy hoạch chi tiết, dự án đầu tư cũng đang được tích cực triển khai, trong đó đặc biệt có những dự án lớn đối với khu vực có mức vốn hàng trăm triệu USD. Trong 4 năm gần đây, toàn ngành đã nghiệm thu 17 đề tài khoa học, trong đó có 3 đề tài cấp nhà nước, 6 công trình khoa học. Dự án công nghệ tin học trong quản lý du lịch và ứng dụng công nghệ thông tin trong tuyên truyền quảng cáo du lịch đang triển khai. Một số sản phẩm CD-ROM Việt Nam về du lịch đã được thử nghiệm có kết quả.
Những hoạt động trên đã góp phần nâng cao từng bước vị thế của du lịch Việt Nam trong khu vực và trên thế giới và những thành tựu ngành du lịch đạt được trong thời gian qua đã góp phần đáng kể vào công cuộc đổi mới của đất nước.
3. Những hạn chế trong hoạt động kinh doanh du lịch quốc tế Việt Nam
3.1 Các vấn đề của ngành
- Cạnh tranh du lịch trong khu vực và quốc tế ngày càng gay gắt, đặc biệt sẽ bị đảy lên ở mức độ cao trong điều kiện toàn cầu hoá, khu vực hoá và biến động khó lường của khủng hoảng tài chính, năng lượng, thiên tai và nhất là trong thời gian gần đây là hiềm hoạ của căn bệnh SARS đang lan nhanh ra toàn thế giới, ảnh hưởng xấu tới sự tăng trưởng của du lịch Việt Nam cũng như toàn cầu. Trong khi đó khả năng cạnh tranh của Du lịch Việt Nam còn hạn chế. Cũng rất may là Việt
Nam đã được Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) thừa nhận thành công trong việc phòng ngừa và kiểm soát SARS. Chúng ta sẽ hy vọng cuộc khủng hoảng này sẽ qua đi nhanh và ngành du lịch Việt Nam lại sớm chứng kiến sự thần kỳ giống như năm 2002.
- Du lịch Việt Nam đang ở giai đoạn đầu của sự phát triển, điểm xuất phát quá thấp so với du lịch ở nhiều nước trong khu vực. Kinh nghiệm quản lý, kinh doanh và trình độ nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ, lao động ngành còn nhiều bất cập. Cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch còn yếu kém, thiếu đồng bộ.
- Tài nguyên và môi trường đang có sự suy giảm do khai thác, sử dụng thiếu hợp lý và những tác động của thiên thai ngày càng tăng và diễn ra ở nhiều vùng, nhiều địa phương trong nước.
- Vốn đầu tư phát triển du lịch rát thiếu, trong khi đó đầu tư lại dàn trải kém hiệu quả đang là một thách thức không nhỏ đối với sự phát triển ngành du lịch.
- Trình độ phát triển kinh tế xã hội của nước ta cũng như mức sống của người dân nhìn chung còn thấp, ảnh hưởng đến quan hệ cung cầu đối với phát triển du lịch.
- Trong nhiều năm qua, Đảng và Chính phủ đã có nhiều chính sách và nỗ lực để phát triển cơ sở hạ tầng, Tuy nhiên, hệ thống cơ sở hạ tầng hiện nay còn yếu kém, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển của các ngành kinh tế, trong đó có du lịch, hạn chế khả năng tiếp cận, phát triển và khai thác các tuyến, điểm du lịch giàu tiềm năng ở các vùng núi, hải đảo, vùng sâu, vùng xa.
- Nhận thức xã hội về du lịch vẫn còn bất cập, thiếu thống nhất trong xây dựng, chỉ đạo, quản lý và thực hiện quy hoạch ngành và lãnh thổ. Bên cạnh đó hệ thống các chính sách, quy định pháp luật liên quan đến phát triển du lịch thiếu đồng bộ so với yêu cầu phát triển và hội nhập quốc tế.
3.2 Thủ tục làm Visa du lịch còn nhiều bất cập
Visa du lịch là yêu cầu đối với hầu hết khách du lịch đến Việt Nam và thủ tục để xin visa thường rát mất thời gian, tốn kém và không cho phép nhiều thay đổi trong lịch
trình đi lại. Bước đầu tiên để xin visa là phải có được một thư cho phép và các khách du lịch thường xin từ một công ty du lịch quốc tế có trụ sở tại Việt Nam hoặc nhờ các đại lý du lịch ở ngay địa phương mình. Mất khoảng 5 ngày để hoàn tất các thủ tục và lệ phí visa là khoảng 50 USD cho thời hạn 01 tháng - Đại Sứ Quán Việt Nam tại nước sở tại của khách du lịch là cơ quan có thẩm quyền cấp visa.
Gần đây mới có thêm một quy định yêu cầu visa đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài và con cái họ nếu họ sinh ra ngoài lãnh thổ Việt Nam và do vậy không mang quốc tịch Việt Nam. Trước đây trẻ em dưới 16 tuổi con em các gia đình người Việt Nam định cư ở nước ngoài không phải xin visa. Tuy nhiên hiện nay tất cả trẻ em ở mọi lứa tuổi và cha mẹ đều phải có visa khi về Việt Nam. Nếu lệ phí cho người Việt Nam định cư ở nước ngoài là 30 USD thì lệ phí cho visa của trẻ em khoảng 65 USD. Như vậy phí visa cho một gia đình 4 người sẽ lên tới 190 USD.
Một thay đổi trong thời hạn đi du lịch ra nước ngoài chính là trở ngại thứ hai. Nếu một khách du lịch quyết định rằng anh ta muốn thăm một nước láng giềng của Việt Nam và chưa lập kế hoặc từ trước, anh ta sẽ phải dành tới 3 hoặc 4 ngày để hoàn thành thủ tục xin visa và nộp thêm lệ phí để trở lại Việt Nam và quay trở về nước. Trên lý thuyết, các khách du lịch có thể xin visa tại sân bay nhưng trên thực tế không ai làm như vậy bởi các hãng hàng không sẽ không chấp nhận các hành khách lên máy bay nếu không có visa. Tóm lại, thủ tục xin visa du lịch vào Việt Nam chính là một
trong những nhân tố gây trở ngại cho việc gia tăng lượng du khách. Có lẽ yêu cầu về visa đã khiến cho ngành du lịch Việt Nam bỏ lỡ mảng khách du lịch bất thường, đặc biệt là khách du lịch từ các nước Đông Nam Á - những người có thể bất chợt muốn dừng chân vào Việt Nam một vài ngày bởi để vào Việt Nam luôn cần phải có kế hoạch từ trước và sẽ vấp phải nhiều thủ tục hành chính cộng với chi phí cao hơn các nước Châu Á khác.
3.3 Công tác Marketing chưa được triển khai toàn diện
Hoạt động Marketing cho ngành du lịch bao gồm rất nhiều hoạt động từ xúc tiến quảng cáo ở nước ngoài cho tới thu thập thông tin về các thị trường và khách hàng tiềm năng và hiện tại, thúc đẩy từng loại hình và dịch vụ du lịch. Chúng ta chưa đầu tư đầy đủ vào hoạt động marketing giới thiệu về Việt Nam như một điểm đến của du lịch ở nước ngoài và vẫn chưa có được một chiến lược để khai thác tối đa tiềm năng du lịch của Việt Nam. Mặc dù có các chương trình khuyếch chương ở trong nước nhưng các chương trình này không giúp thu hút được được khách du lịch mới đến Việt nam vì chúng hướng vào những khách du lịch đang ở Việt Nam rồi. Hơn nữa, hoạt động xúc tiến quảng cáo ở Việt Nam như các bảng hiệu ở các thành phố hay trục đường cao tốc lại không nêu được những địa chỉ cụ thể trong nước mà chỉ tập trung giới thiệu chung về đất nước. Các công ty đơn lẻ hay một số công ty cùng nhau gố gắng xây dựng hình ảnh Việt Nam trở thành một điểm đến nhưng những nỗ lực của họ vẫn chưa đáp ứng được các tiêu chuẩn quốc tế. Thailand và Singapore đã thực hiện những chiến lược marketing đồng bộ trong đó bao gồm cả việc thành lập và hoạt động một số văn phòng du lịch ở nước ngoài - những văn phòng này còn góp phần thúc đẩy sự hợp tác liên chính phủ - trong khi đó chúng ta chưa xây dựng được một chiến lược như vậy trong Chiến lược Tổng thể cho ngành du lịch hay thành lập được
một văn phòng ở nước ngoài nào.
53
3.4 Còn nhiều cản trở trong việc cấp giấy phép hoạt động cho các công ty du lịch Nhiều công ty du lịch đang hoạt động ở Việt Nam bày tỏ mong muốn giảm thiểu sự khác biệt trong các quy định quản lý công ty du lịch nội địa và du lịch quốc tế về quy định và giấy phép hoạt động. Ví dụ một số công ty tư nhân kinh doanh du lịch nội địa gặp phải khó khăn nêu trên khi họ ký kết hợp đồng với các công ty du lịch quốc tế để cung cấp dịch vụ cho khách đã buộc họ phải hợp tác với các doanh nghiệp nhà nước (được phép hợp tác với các tổ chức du lịch quốc tế).
Vấn đề về tính hợp pháp của hợp đồng cũng rất quan trọng bởi trên lý thuyết các công ty có thể xin cấp phép hoạt động quốc tế, tuy vậy trên thực tế những giấy phép này hiếm khi được cơ quan cáp phép phê duyệt. Có công ty du lịch nội địa đã thâm nhập được vào thị trường Đông Dương nhưng đã phải đợi tám năm để xin được giấy phép hoạt động quốc tế. Để giải quyết tình thế này, nhiều chủ đầu tư nước ngoài đã thành lập nhiều công ty Việt Nam và hoạt động như những công ty du lịch quốc tế. Điều này dẫn tới hậu quả có một khoảng cách rất lớn trong khu vực tư nhân giữa những công ty có giấy phép, giữa các công ty hoạt động du lịch quốc tế hợp lệ và những công ty hoạt động không hợp lệ. Còn gây ra thêm nhiều vấn đề khi các khách du lịch gặp khó khăn.
Ngoài ra một yêu cầu chưa thành văn bản đối với các giấy phép kinh doanh du lịch quốc tế là mỗi năm, mỗi công ty phải chứng tỏ mình đã bán được tour du lịch cho không dưới 2.000 khách trong mỗi chương trình chọn gói. Trong điều kiện các công ty trong nước bị cấm kinh doanh với khách quốc tế, hầu hết các công ty đều thấy không thể thực hiện được yêu cầu này.
3.5 Cơ sở hạ tầng giao thông vận tải chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển
Hãng hàng không Việt Nam (Vietnam Airlines) hầu như không có các chuyến bay trực tiếp từ các thành phố chính của Châu Âu và chủ yếu chỉ đón thông qua các cửa