Phân Tích Hiệu Quả Sử Dụng Vốn:


Phân tích nguồn vốn và sử dụng vốn là xem xét sự thay đổi của các nguồn và cách thức sử dụng vốn của một DN trong một thời kỳ theo số liệu giữa hai thời điểm lập Bảng cân đối kế toán.

Để lập được bảng này, trước hết phải liệt kê sự thay đổi các khoản mục trên BCĐKT từ đầu kỳ đến cuối kỳ. Mỗi sự thay đổi được phân biệt ở hai cột: sử dụng vốn và nguồn vốn theo nguyên tắc:

- Sử dụng vốn: tăng TS hoặc giảm nguồn

- Nguồn vốn: giảm TS hoặc tăng nguồn.

Tiếp theo, ta phải tiến hành sắp xếp các chỉ tiêu về nguồn vốn và sử dụng vốn theo những trình tự nhất định tuỳ theo mục tiêu phân tích và phản ánh vào một bảng biểu theo mẫu sau:


Chỉ tiêu

Số đầu kỳ

Số cuối kỳ

Sư dơng vèn

Nguồn vốn

TS





Nguồn vốn





Tỉng céng





Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 299 trang tài liệu này.

Hoàn thiện kiểm tra và phân tích báo cáo tài chính với việc tăng cường quản trị tài chính trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam - 9

Việc thiết lập bảng kê nguồn vốn và sử dụng vốn là cơ sở để tiến hành phân tích nguồn vốn và sử dụng vốn nhằm chỉ ra trong kỳ kinh doanh nguồn vốn tăng (giảm) bao nhiêu, tình hình sử dụng vốn như thế nào. chủ yếu đầu tư vào đâu, nguồn vốn dùng để tài trợ cho những đầu tư đó lấy từ đâu, những chỉ tiêu nào là chủ yếu ảnh hưởng tới sự tăng giảm nguồn vốn và sử dụng vốn của DN? Từ đó, có giải pháp khai thác các nguồn vốn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong DN.

Ngoài việc phân tích nguồn vốn và sử dụng vốn, người ta còn phân tích tình hình tài chính theo luồng tiền để xác định sự tăng (giảm) tiền và nguyên nhân tăng (giảm) tiền. Trên cơ sở đó, DN sẽ có những biện pháp quản lý ngân quỹ tốt hơn. Mỗi sự thay

đổi cuối kỳ so với đầu kỳ trong từng chỉ tiêu của BCĐKT đều dẫn tới sự tăng (giảm) tiền mặt tương ứng theo nguyên tắc:

Tăng tiền mặt là giảm TS và tăng NV. Giảm tiền mặt là tăng TS và giảm NV.

Tổng cộng tăng (giảm) tiền mặt đến cuối kỳ đúng bằng sự thay đổi trên dòng tiền mặt cuối kỳ so với đầu kỳ của BCĐKT.

Phân tích theo hướng này giúp ta xác định khả năng chuyển đổi vật tư, hàng hóa và TS thành tiền mặt trong kỳ.


1.5.4.2.4. Phân tích hiệu quả sử dụng vốn:

Phân tích khả năng hoạt động:

Các tỷ lệ về khả năng hoạt động được sử dụng để đánh giá hiệu quả sử dụng nguồn vốn của DN. Nguồn vốn của DN được dùng để đầu tư cho các loại TS khác nhau như TSCĐ, TSNH nhằm thu được kết quả cao nhất trong quá trình kinh doanh với chi phí thấp nhất. Do đó, các nhà phân tích không chỉ quan tâm tới việc đo lường hiệu quả sử dụng tổng số nguồn vốn mà còn chú trọng tới hiệu quả sử dụng của từng bộ phận cấu thành nguồn vốn của DN.

Khả năng hoạt động của DN là một vấn đề phức tạp, có quan hệ với tất cả các yếu tố trong quá trình kinh doanh nên DN chỉ có thể đạt được hiệu quả cao khi việc sử dụng các yếu tố cơ bản của quá trình kinh doanh có hiệu quả.

Chỉ tiêu doanh thu thuần được sử dụng chủ yếu trong các tỷ lệ này nhằm xem xét khả năng hoạt động của DN. Khi thiết lập quan hệ giữa doanh thu thuần với các chỉ tiêu tài chính khác, có thể đưa ra những đánh giá nhất định về hiệu quả sử dụng vốn của DN, tiêu biểu như:

Hiệu suất sử dụng tổng TS (số vòng quay của tổng TS):

Chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả sử dụng tổng tài sản của DN, nó cho biết một

đồng TS đem lại bao nhiêu đồng doanh thu thuần trong kì. Chỉ tiêu này cũng thể hiện số vòng quay trung bình của toàn bộ vốn của DN trong kỳ báo cáo. Nói chung, vòng quay càng lớn thì hiệu quả càng cao. Do đó, việc tăng vòng quay vốn kinh doanh là yếu tố quan trọng làm tăng lợi nhuận của DN, đồng thời làm tăng khả năng cạnh tranh, uy tín của DN trên thị trường.


Số vòng quay

cđa tỉng TS =

Doanh thu thuần Tổng TS bình quân


(8)


Xuất phát từ nguyên tắc tính và phân tích khả năng hoạt động dựa trên chỉ tiêu số vòng quay của tổng tài sản, người phân tích có thể tính toán và phân tích các chỉ tiêu khác có liên quan như vòng quay của hàng tồn kho, vòng quay của TSCĐ, vòng quay của tài sản lưu động, vòng quay tiền, vòng quay các khoản phải thu...


Vòng quay của hàng tồn kho

Hàng tồn kho thường chiếm một tỷ trọng lớn trong TSNH của DN. Dự trữ hàng tồn kho là một khoản đầu tư cần thiết để bảo đảm tính liên tục của sản xuất cũng như lưu thông và không bỏ lỡ cơ hội trong kinh doanh. Tuy nhiên, nếu dự trữ hàng tồn kho quá nhiều sẽ khiến vốn của DN bị ứ đọng, thậm chí, DN có thể bị thua lỗ do hàng tồn kho bị mất giá.Vì vậy, một mặt, DN phải duy trì dự trữ hàng tồn kho ở mức tối ưu, mặt khác cần tăng vòng quay của chúng.

Đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ có quy mô vốn hạn chế, vấn đề dự trữ hàng tồn kho và đẩy nhanh quay vòng hàng tồn kho lại càng trở nên quan trọng. Do đó, người sử dụng thông tin cũng như các nhà quản trị trong DN vừa và nhỏ cần thiết phải phân tích chỉ tiêu vòng quay của hàng tồn kho (dự trữ) để có thể đưa ra những đánh giá chính xác của DN cũng như đề ra những chính sách đúng đắn về tình hình kinh doanh.

Vòng quay dự trữ được xác định bằng tỷ lệ giữa giá vốn hàng bán trong năm và giá trị hàng tồn kho (nguyên vật liệu, vật liệu phụ, sản phẩm dở dang, thành phẩm, hàng hóa) bình quân.


Vòng quay hàng

tồn kho =

Giá vốn hàng bán Dự trữ bình quân


(9)


Chỉ tiêu vòng quay dự trữ phản ánh số lần hàng hoá tồn kho được bán ra trong kỳ kế toán và có ảnh hưởng trực tiếp đến nhu cầu vốn luân chuyển. Con số này càng cao chứng tỏ khả năng bán ra càng lớn. Trên góc độ chu chuyển vốn thì hệ số quay vòng tồn kho lớn sẽ giảm bớt được số vốn đầu tư vào khoản mục này, hiệu quả sử dụng vốn sẽ cao hơn. Tuy nhiên, khi phân tích cũng phải chú ý đến những nhân tố khác ảnh hưởng tới hệ số vòng quay tồn kho như việc áp dụng phương thức bán hàng, kết cấu hàng tồn kho, thị hiếu tiêu dùng, tình trạng nền kinh tế, đặc điểm theo mùa vụ của DN, thời gian giao hàng của nhà cung cấp.

Biến động của chỉ tiêu này cung cấp cho ta nhiều thông tin. Việc giảm vòng quay dự trữ có thể do chậm bán hàng, quản lý dự trữ kém, trong dự trữ có nhiều sản phẩm lạc hậu. Nhưng giảm vòng quay dự trữ cũng có thể là quyết định của DN tăng


mức dự trữ nguyên vật liệu khi biết trước giá cả của chúng sẽ tăng hoặc có thể sẽ có sự gián đoạn trong việc cung cấp các nguyên vật liệu này. Ngược lại, việc tăng vòng quay dự trữ có thể do những cải tiến được áp dụng trong khâu bán hàng hay hàng hoá của DN đạt chất lượng cao, kết cấu hợp lý. Nếu DN duy trì mức tồn kho thấp, hệ số quay vòng tồn kho cao là điều đáng khích lệ nhưng đôi khi có thể gây ra tình trạng thiếu hàng để bán và ảnh hưởng tới việc tăng doanh thu, tăng lợi nhuận.

Hiệu suất sử dụng TSCĐ:

Chỉ tiêu này được dùng nhằm đo lường hiệu quả việc sử dụng tài sản cố định của doanh nghiệp. Qua chỉ tiêu này, nhà phân tích có thể biết một đồng TSCĐ tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu trong kỳ.


Hiệu suất sử dụng

TSCĐ =

Doanh thu thuần


Tài sản cố định


(10)


Trong đó: Giá trị tài sản cố định được xác định theo giá trị còn lại đến thời điểm lập báo cáo.

Vòng quay vốn hoạt động:

Trong quá trình sản xuất kinh doanh, vốn hoạt động vận động không ngừng, thường xuyên qua các giai đoạn của quá trình tái sản xuất. Để nắm bắt được tình hình luân chuyển nhằm mục tiêu đẩy nhanh tốc độ luân chuyển của vốn hoạt động, người ta thường sử dụng chỉ tiêu Vòng quay vốn hoạt động.


Vòng quay vốn

hoạt động =

Doanh thu thuần


Vốn hoạt động


(11)


Chỉ tiêu này cho biết vốn hoạt động quay được mấy vòng trong kỳ. Nếu số vòng quay tăng, chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn tăng và ngược lại.

Vòng quay tiền:

Tiền là TS có tính thanh khoản cao nhất trong tổng TS của DN. Việc lưu giữ tiền và các TS tương đương tiền đem lại cho DN nhiều lợi thế như tự chủ trong kinh doanh,


mua hàng trả tiền ngay có thể được hưởng chiết khấu, có khả năng thanh toán nợ ngắn hạn cao, tạo uy tín với các đối tác làm ăn. Tuy nhiên, nếu lưu giữ tiền ở mức không hợp lý có thể gây ra nhiều bất lợi vì nếu lưu quá nhiều tiền sẽ gây ứ đọng vốn, hạn chế khả năng đầu tư vào các TS khác, từ đó, làm giảm khả năng sinh lợi. Ngoài ra, tiền có giá trị theo thời gian và trong bất kỳ nền kinh tế nào cũng có hiện tượng lạm phát nên lưu giữ quá nhiều tiền sẽ không tốt cho DN. Vì vậy, ta cần quan tâm đến tốc độ quay vòng tiền sao cho đem lại khả năng sinh lợi cao nhất cho doanh nghiệp.

Vòng quay tiền được tính bằng cách chia doanh thu tiêu thụ trong năm cho tổng tiền mặt và các loại TS tương đương tiền bình quân. Chỉ tiêu này cho biết số vòng quay của tiền trong năm.


Vòng quay

tiÒn =

Doanh thu thuần


Tiền và TS tương đương tiền


(12)


Số vòng quay tiền càng nhỏ hoặc giảm đi chứng tỏ sự đi xuống trong hoạt động kinh doanh nói chung cũng như hoạt động bán hàng của doanh nghiệp nói riêng. Để có thể tăng vòng quay tiền, người quản lý cần quan tâm đến việc tác động tới các nhân tố

ảnh hưởng trực tiếp là Doanh thu bán hàng, Tiền và các tài sản tương đương tiền.

Thời gian thu tiền bình quân:

Trong nền kinh tế thị trường, các DN không ngừng cạnh tranh để tồn tại, phát triển và chiếm lĩnh thị trường và duy trì thị trường truyền thống, nhiều DN đ` thực hiện chính sách bán chịu. Nhờ đó, DN có thể giảm hàng tồn kho, duy trì được mức sản xuất, nâng cao hiệu quả sử dụng máy móc thiết bị. Hơn nữa, việc bán chịu còn có thể mang lại lợi nhuận tiềm năng cao hơn nhờ việc tăng giá do khách hàng mua chịu.

Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm trên, việc bán chịu cũng đẩy DN vào tình trạng phải đối mặt với những rủi ro trong trường hợp khách hàng mất khả năng thanh toán hay nợ phải thu quá hạn, dẫn đến việc mất vốn lưu động hoặc tốc độ chu chuyển vốn giảm. Đồng thời, nó cũng khiến cho DN phát sinh thêm chi phí như chi phí thu nợ,

đặc biệt, trong trường hợp thiếu vốn, DN phải huy động nguồn tài trợ cho việc bán chịu. Hơn nữa, bán chịu càng nhiều, các khoản phải thu càng lớn, chứng tỏ vốn của DN bị chiếm dụng càng nhiều, gây ứ đọng trong thanh toán. Nhanh chóng giải phóng vốn bị ứ


đọng trong khâu thanh toán là một bộ phận rất quan trọng của công tác tài chính. Vì vậy, nhiệm vụ của người quản lý DN là phải quan tâm đến thời gian thu tiền bình quân và có biện pháp rút ngắn thời gian này.


Thời gian thu tiền bình quân (ngày)

Số dư các khoản phải thu

=

Doanh thu thuần


x 365 (13)


Trong phân tích tài chính, kỳ thu tiền bình quân cũng là chỉ tiêu quan trọng để

đánh giá khả năng thu hồi vốn trong thanh toán của DN. Tuy nhiên, khi đưa ra các đánh giá về thời gian thu tiền bình quân, liên quan đến khả năng sử dụng vốn, thu hồi công nợ của một doanh nghiệp, người phân tích cần quan tâm thích đáng tới các yếu tố:

- Chính sách tín dụng thương mại của DN: trong mỗi thời kì phát triển và hoạt

động khác nhau, các DN có thể áp dụng những chính sách thương mại khác nhau. Trong giai đoạn cần phát triển thị trường, hầu hết các DN thường kéo dài thời hạn thanh toán cho khách hàng hơn so với đối thủ cạnh tranh.

- Tình trạng của nền kinh tế: khi các yếu tố về môi trường kinh tế thuận lợi, cũng như bản thân đang hoạt động tốt, DN dễ chấp nhận bán chịu. Tuy nhiên, nếu DN đ` chấp nhận bán chịu mà mức tiêu thụ không tăng thì đó là dấu hiệu xấu về tình hình kinh doanh của DN. Ngược lại, khi nền kinh tế ở vào thời kỳ suy thoái, các DN thường gặp khó khăn trong vấn đề thanh toán thì DN thường giảm thời gian bán chịu và cần phải thay đổi chính sách để giữ khách hàng, nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Những chính sách này của DN sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới thời gian thu tiền, số vòng quay các khoản phải thu.

- L`i suất đi vay và chi phí bán chịu: khi l`i suất tín dụng cấp cho các DN để tài trợ cho kinh doanh tăng, các DN có xu hướng giảm thời gian bán chịu vì nếu tiếp tục kéo dài thời hạn sẽ rất tốn kém về chi phí tài chính.


Phân tích khả năng sinh lời


Bất cứ một DN nào, khi tham gia sản xuất kinh doanh, cũng có mục đích là một

đồng vốn bỏ ra mang lại hiệu quả cao nhất và khả năng sinh lời nhiều nhất. Khả năng sinh lời là kết quả tổng hợp, chịu tác động của nhiều nhân tố. Nó là một trong những nội dung phân tích mà các nhà quản trị tài chính, các nhà đầu tư, các nhà tín dụng quan tâm đặc biệt vì nó gắn liền với lợi ích của họ cả ở hiện tại và tương lai.

Nếu như các nhóm tỷ lệ trên đây phản ánh hiệu quả từng hoạt động riêng biệt của DN thì tỷ lệ về khả năng sinh lời phản ánh tổng hợp nhất hiệu quả sản xuất kinh doanh và hiệu năng quản lý DN. Chúng là một trong những cơ sở quan trọng để các nhà hoạch định đưa ra các quyết định tài chính trong tương lai.

Các chỉ tiêu thể hiện khả năng sinh lời được tính toán dựa trên tỉ lệ giữa Lợi nhuận với giá trị các yếu tố đầu vào (thể hiện tổng giá trị nguồn lực được sử dụng trong kì) hoặc tỉ lệ giữa Lợi nhuận với giá trị các yếu tố đầu ra (thể hiện kết quả trực tiếp của việc sử dụng vốn).

Dựa trên nguyên tắc trên, có thể tính ra nhiều tỉ suất khác nhau thể hiện khả năng sinh lời, tuy nhiên, người phân tích thường tập trung vào việc tính toán và so sánh các chỉ tiêu sau:

Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm (sức sinh lời của doanh thu):

Chỉ tiêu này được xác định bằng cách chia lợi nhuận sau thuế cho doanh thu tiêu thụ. Nó phản ánh số lợi nhuận sau thuế có trong 1 đồng doanh thu.


Sức sinh lợi

cđa DT =

Lợi nhuận sau thuế


Doanh thu thuần


(14)


Chỉ tiêu này thay đổi tăng giảm giữa các kỳ theo sự thay đổi của doanh thu thuần và chi phí. Nếu doanh thu thuần giảm hoặc tăng không đáng kể trong khi đó các chi phí tăng lên với tốc độ lớn hơn sẽ dẫn đến lợi nhuận sau thuế giảm và kết quả là doanh thu tiêu thụ sản phẩm thấp. Khi đó, DN cần xác định rõ nguyên nhân để có giải pháp khắc phục kịp thời.

Bên cạnh việc phân tích sức sinh lời của doanh thu, phân tích tỉ suất về chi phí trên doanh thu thuần là việc làm cần thiết để có thể thấy rõ hơn về hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.


Tỉ suất CF hoạt

động/DT =

Chi phí hoạt động


Doanh thu thuần


(15)


Tỉ suất chi phí hoạt động trên doanh thu giảm đi là xu hướng tốt trong hoạt động của doanh nghiệp, điều đó chứng tỏ để tạo ra doanh thu trong kì, doanh nghiệp cần ít chi phí hơn. Ngược lại, sẽ là xu hướng thiếu khả quan nếu tỉ suất này tăng thêm, có nghĩa là doanh nghiệp cần bỏ ra nhiều chi phí hơn để có thể tạo ra 1 đồng doanh thu.

Sức sinh lời của vốn chủ sở hữu:

Chỉ tiêu doanh lợi vốn chủ sở hữu được xác định bằng cách chia lợi nhuận sau thuế cho vốn chủ sở hữu. Nó phản ánh khả năng sinh lời của vốn CSH và được các nhà

đầu tư đặc biệt quan tâm khi họ quyết định bỏ vốn đầu tư vào DN. Tăng mức doanh lợi của vốn CSH cũng là mục tiêu hoạt động quản lý tài chính DN.


Sức sinh lời

cđa vèn chđ =

sở hữu

Lợi nhuận sau thuế Vốn chủ sở hữu


(16)


Để có thể thấy rõ hơn bản chất và những yếu tố ảnh hưởng tới sức sinh lời của vốn chủ sở hữu, tỉ lệ này thường được phân tích chi tiết theo phương pháp Dupont như sau:

Lợi nhuận sau thuế

=

Vèn chđ

sở hữu

Lợi nhuận sau thuế

Doanh thu thuần

Doanh thu thuần

X

Tỉng TS


Tỉng TS

X

Vốn chủ sở

hữu


(17)


Như vậy, sức sinh lợi của vốn chủ sở hữu (doanh lợi vốn CSH) chịu ảnh hưởng của 3 nhân tố:

- Doanh thu tiêu thụ sản phẩm.

- Hiệu suất sử dụng tổng TS.

- Tỷ trọng vốn CSH trên tổng TS.

Xem tất cả 299 trang.

Ngày đăng: 05/01/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí