đối tượng tập hợp CP trong doanh nghiệp. Mỗi hoạt động (nhóm hoạt động) cần phải xác định các nguồn lực tiêu hao và tiến hành tập hợp CP riêng biệt.Sau đó, xác định CP cho từng đơn vị đo lường hoạt động.
- Phân bổ CP của các hoạt động vào đối tượng tính giá thành dựa trên cơ sở CP cho từng đơn vị đo lường hoạt động và mức độ sử dụng hoạt động (số lần, thời gian, mức độ) của từng đối tượng tính giá thành.
Phương pháp xác định CP sản xuất theo hoạt động sử dụng hệ thống các tiêu thức phân bổ, các tiêu thức phân bổ được lựa chọn đều thể hiện được mối quan hệ nhân – quả với CP cần phân bổ. Phương pháp này giúp doanh nghiệp có được dữ liệu CP chính xác từ đó đưa ra được các quyết định kinh doanh và kiểm soát tốt CP.
Tuy nhiên, để áp dụng phương pháp này doanh nghiệp phải bỏ ra CP đầu tư lớn, mất nhiều công sức trong việc xây dựng, thu thập các dữ liệu ban đầu về các hoạt động trong doanh nghiệp.
Phương pháp xác định CP sản xuất theo CP mục tiêu
Phương pháp CP mục tiêu gắn liền mục tiêu CP với việc xác định mục tiêu lợi nhuận theo chu kỳ sống của sản phẩm. Đây là điểm khác biệt của phương pháp CP mục tiêu so với các phương pháp truyền thống.CP mục tiêu được tiến hành song song với các bước của quy trình chế tạo sản phẩm.Với mỗi bước của quy trình chế tạo sản phẩm, CP mục tiêu thực hiện nội dung khác nhau.Ở giai đoạn nghiên cứu thị trường, doanh nghiệp xác định giá bán dự kiến của sản phẩm và xác định mục tiêu lợi nhuận.Trên cơ sở xác định giá bán dự kiến và lợi nhuận mục tiêu xác định CP trần có thể chấp nhận được. Ở giai đoạn sản xuất, doanh nghiệp ước tính CP sản xuất theo điều kiện cụ thể của doanh nghiệp. Trên cơ sở CP trần và CP ước tính xác định CP mục tiêu. Sau khi xác định được các CP mục tiêu, các định mức CP được xây dựng để kiểm soát CP. Ở giai đoạn thực hiện kết quả sản xuất, nếu CP thực tế đạt đến CP trần thì cần dừng lại để đánh giá quá trình sản xuất vì sản phẩm sản xuất không mang lại lợi nhuận. Nếu CP sản xuất chưa đạt đến CP trần nhưng đạt đến CP mục tiêu thì cần
xem xét lại tính hợp lý của giai đoạn thiết kế hoặc giai đoạn sản xuất để cắt giảm CP. Như vậy CP mục tiêu được xem xét là giới hạn CP để đạt được hiệu quả sản xuất mong muốn. Phương pháp này áp dụng phù hợp với môi trường sản xuất tiên tiến, hiện đại, tự động hóa cao… và đòi hỏi các nhà quản trị phải tổ chức quá trình sản xuất nghiêm ngặt ở các giai đoạn nhằm đạt mục tiêu CP và lợi nhuận.
Để cung cấp thông tin cho nhà quản trị, hệ thống các báo cáo kế toán quản trị là kết quả cuối cùng của quá trình thu nhận, xử lý và cung cấp thông tin. Các báo cáo kế toán quản trị được thiết lập và xây dựng cần phù hợp với yêu cầu cung cấp thông tin trong nội bộ doanh nghiệp. Các báo cáo kế toán quản trị cần được thể hiện, trình bày đầy đủ các số liệu dự toán, thực tế, phản ánh chênh lệch và những chỉ tiêu tài chính chủ yếu phù hợp đảm bảo được tính so sánh của thông tin phục vụ yêu cầu quản lý. Hệ thống các báo cáo kế toán quản trị CP, DT và KQKD trong DNSX có thể bao gồm các báo cáo như: Báo cáo tình hình thực hiện CP, Báo cáo phân tích biến động CP; Báo cáo tình hình thực hiện DT, Báo cáo phân tích biến động DT; Báo cáo KQKD theo lợi nhuận góp…
Có thể bạn quan tâm!
- Nội Dung Kế Toán Cp, Dt Và Kqkd Trong Dnsx Trên Phương Diện
- Nội Dung Kế Toán Cp, Dt Và Kqkd Trong Dnsx Trên Phương Diện Ktqt
- Dự Toán Sản Xuất Kinh Doanh (Nguồn: Tác Giả Tổng Hợp)
- Kế Toán Cp, Dt Và Kqkd Theo Hệ Thống Kế Toán Pháp
- Sản Lượng Xi Măng Sản Xuất Và Tiêu Thụ Của Tct Công Nghiệp Xi Măng Việt Nam Giai Đoạn 2006 – 2016
- Tiêu Thụ Sản Phẩm Xi Măng Năm 2013-2014 Của Các Dnsx Xi Măng Thuộc Tct Công Nghiệp Xi Măng Việt Nam
Xem toàn bộ 200 trang tài liệu này.
1.2.3.3.Phân tích, so sánh các thông tin CP, DT, KQKD, đánh giá trách nhiệm quản lý
Phân tích, so sánh các thông tin, xác định nguyên nhân giúp nhà quản trị kiểm tra, đánh giá và ra quyết định trong doanh nghiệp sản xuất
Phân tích thông tin thực hiện so với dự toán thực chất chính là phân tích biến động CP sản xuất kinh doanh giữa thực tế và dự toán, phân tích biến động tiêu thụ để phát hiện chênh lệch, xác định sự ảnh hưởng của từng nhân tố đến sự biến động, chỉ ra các nguyên nhân khách quan, chủ quan tác động từ đó đưa ra các giải pháp góp phần kiểm soát tốt CP, kiểm soát tình hình thực hiện kế hoạch lợi nhuận trong doanh nghiệp. Khi phân tích và xem xét sự ảnh hưởng của từng nhân tố có thể sử dụng các phương pháp nghiệp vụ kỹ thuật thích hợp như phương pháp so sánh, phương pháp loại trừ …Phân tích biến động CP sản xuất kinh doanh được xem xét trên cơ sở phân tích biến động của từng khoản mục CP
bao gồm CP nguyên vật liệu trực tiếp, CP nhân công trực tiếp, CP sản xuất chung, CP bán hàng và CP quản lý doanh nghiệp.
Phân tích biến động CP nguyên vật liệu trực tiếp có thể được thực hiện với từng loại vật liệu chủ yếu sử dụng cho từng loại sản phẩm hay nhiều loại sản phẩm. Phân tích biến động CP nguyên vật liệu trực tiếp là so sánh giữa CP thực tế và CP dự toán cho khối lượng sản xuất thực tế, xác định sự ảnh hưởng của hai nhân tố là mức tiêu hao nguyên vật liệu (lượng) và giá nguyên vật liệu (giá). Sự biến động về mức độ tiêu hao nguyên vật liệu có thể chịu sự tác động của nhiều nguyên nhân như chất lượng nguyên vật liệu, tình trạng hoạt động của máy móc, thiết bị, quá trình tổ chức quản lý sản xuất trong doanh nghiệp…Sự biến động về giá nguyên vật liệu có thể do giá cả thị trường, tổ chức quản lý quá trình thu mua, nguồn cung cấp nguyên vật liệu….
Phân tích biến động CP nhân công trực tiếp có thể được thực hiện với từng giai đoạn sản xuất, từng loại hoặc nhiều loại sản phẩm trong doanh nghiệp. Phân tích biến động CP nhân công trực tiếp là so sánh giữa CP thực tế và CP dự toán cho khối lượng sản xuất thực tế, xác định sự ảnh hưởng của hai nhân tố là thời gian lao động (lượng) và đơn giá nhân công (giá). Sự biến động của thời gian lao động có thể do trình độ thành thạo của người lao động, tình trạng hoạt động của máy móc thiết bị, tổ chức quản lý quá trình sản xuất, chế độ đãi ngộ người lao động…Sự biến động của đơn giá lao động có thể do việc bố trí lao động, thời gian lao động…
Phân tích biến động CP sản xuất chung được tách ra làm phân tích biến động biến phí sản xuất chung và biến động định phí sản xuất chung. Khi phân tích biến động biến phí sản xuất chung nếu định mức biến phí sản xuất chung được lập theo yếu tố thì việc phân tích tương tự như phân tích CP nguyên vật liệu trực tiếp và CP nhân công trực tiếp. Trong trường hợp định mức biến phí sản xuất chung được lập theo một tỷ lệ phần trăm trên biến phí trực tiếp, phân tích biến động biến phí sản xuất chung bằng cách so sánh giữa biến phí sản xuất chung thực tế và biến phí sản xuất chung dự toán theo mức hoạt động thực tế, từ
đó xác định sự ảnh hưởng của hai nhân tố là mức độ hoạt động và đơn giá biến phí sản xuất chung. Phân tích biến động định phí sản xuất chung là đánh giá sự biến động của mức độ hoạt động (chênh lệch định phí sản xuất chung dự toán theo mức độ hoạt động thực tế và định phí sản xuất chung dự toán) và biến động chi tiêu (chênh lệch định phí sản xuất chung thực tế và định phí sản xuất chung dự toán).
Phân tích biến động CP bán hàng và CP quản lý doanh nghiệp được xem xét tương tự như CP sản xuất chung.
Phân tích mối quan hệ CP, DT, lợi nhuận thực chất là xem xét, đánh giá ảnh hưởng của những thay đổi về CP, giá bán và sản lượng đối với lợi nhuận của doanh nghiệp. Điểm cơ bản khi phân tích CP, DT, lợi nhuận là xác định điểm hòa vốn trong doanh nghiệp bao gồm sản lượng hòa vốn, DT hòa vốn và thời gian hòa vốn. Điểm hòa vốn là điểm mà tại đó lợi nhuận bằng không, DT vừa đủ để bù đắp CP hay tổng lãi trên biến phí (lợi nhuận góp) vừa đủ để bù đắp định phí của doanh nghiệp. Việc phân tích này phải dựa trên một số giả thuyết là CP phải được phân định thành biến phí và định phí, phương trình CP, DT phải là phương trình có dạng tuyến tính, sản phẩm tồn kho bằng không hoặc không thay đổi. Trong trường hợp DNSX và tiêu thụ một loại sản phẩm để xác định điểm hòa vốn sử dụng các phương pháp đồ thị hòa vốn, phương pháp phương trình và lợi nhuận góp đơn vị sản phẩm.Tuy nhiên trong thực tế, doanh nghiệp thường sản xuất và tiêu thụ nhiều loại sản phẩm để giảm thiểu rủi ro trong quá trình kinh doanh.Với những doanh nghiệp này việc xác định điểm hòa vốn thường phức tạp vì mỗi một sản phẩm có giá bán, lợi nhuận góp đơn vị khác nhau.Mặt khác việc phân bổ định phí cho từng sản phẩm không đảm bảo tính chính xác cho từng sản phẩm. Trong trường hợp đó, việc xác định điểm hòa vốn phải dựa trên cơ sở giả thuyết kết cấu tiêu thụ sản phẩm ổn định ở các mức DT khác nhau và xác định sản lượng hòa vốn, DT hòa vốn thông qua các chỉ tiêu lợi nhuận góp bình quân đơn vị sản phẩm (đối với các sản phẩm đồng chất) và tỷ lệ lợi nhuận góp bình quân toàn doanh nghiệp. Xác định điểm hòa vốn là căn cứ quan trọng
để các nhà quản trị đưa ra các quyết định như định giá bán sản phẩm, xác định mức sản lượng DT để đạt được lợi nhuận mong muốn, đưa ra các quyết định kinh doanh trong ngắn hạn…
Khi vận dụng phân tích mối quan hệ CP, DT, lợi nhuận trong thực tế các doanh nghiệp cần phải xem xét việc hội tụ đủ các điều kiện giả thuyết tuy nhiên cũng có thể nhìn nhận phân tích này thực sự cần thiết khi tư vấn cho nhà quản trị để ra quyết định.
Đánh giá trách nhiệm của các bộ phận trong tổ chức
Muốn đánh giá được trách nhiệm của các bộ phận trong một tổ chức hoạt động đòi hỏi phải có sự phân quyền trong tổ chức. Một tổ chức phân quyền dẫn đến sự hình thành các TTTN. TTTN là một bộ phận trong một tổ chức hoạt động mà nhà quản lý bộ phận phải chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động của bộ phận mình với nhà quản trị cấp cao hơn. Trong doanh nghiệp, dựa trên cơ sở phân cấp quản lý mà thông thường được chia thành bốn TTTN: trung tâm CP, trung tâm DT, trung tâm lợi nhuận và trung tâm đầu tư.
Trung tâm CP là một loại TTTN mà tại đó các nhà quản lý phải chịu trách nhiệm về CP phát sinh thuộc phạm vi quản lý. Theo đó, người quản lý phải có trách nhiệm kiểm soát toàn bộ các CP phát sinh tại trung tâm. Để đánh giá trách nhiệm của trung tâm CP, tiến hành so sánh giữa CP thực tế so với dự toán, định mức, phân tích sự biến động của các định mức CP, xem xét sự ảnh hưởng của các nhân tố đến sự biến động đó từ đó lập báo cáo tình hình thực hiện CP, giá thành tại bộ phận mình cho nhà quản trị cấp cao hơn. Trung tâm CP được hình thành gắn liền với nơi phát sinh các CP trực tiếp để sản xuất sản phẩm như phân xưởng, tổ đội sản xuất….
Trung tâm DT là một loại TTTN mà tại đó các nhà quản lý phải chịu trách nhiệm về DT đạt được thuộc phạm vi quản lý. Mục tiêu của trung tâm DT là tối đa hóa DT của trung tâm. Để đánh giá trách nhiệm của trung tâm DT tiến hành phân tích DT của từng sản phẩm, DT theo từng thị trường từ đó lập Báo cáo tình hình thực hiện DT theo sản phẩm, thị trường… tại bộ phận mình cho nhà quản
trị cấp cao hơn. Trung tâm DT được hình thành gắn liền với các đơn vị, bộ phận có chức năng tiêu thụ sản phẩm như phòng kinh doanh, bộ phận bán hàng…
Trung tâm lợi nhuận là một loại TTTN mà tại đó các nhà quản lý phải chịu trách nhiệm về lợi nhuận đạt được thuộc phạm vi quản lý. Mục tiêu của trung tâm lợi nhuận là tối đa hóa lợi nhuận của trung tâm. Trung tâm lợi nhuận có trách nhiệm đối với cả sự phát sinh DT và CP. Để đánh giá trách nhiệm của các trung tâm lợi nhuận tiến hành tính toán các chỉ tiêu như Lợi nhuận góp, Tỷ lệ lợi nhuận góp, Lợi nhuận bộ phận, Tỷ lệ lợi nhuận bộ phận và lập Báo cáo KQKD theo lợi nhuận góp. Trung tâm lợi nhuận được gắn liền với các đơn vị, bộ phận thuộc các cấp quản trị trung gian như phòng kế toán, ban giám đốc các công ty trực thuộc TCT….
Trung tâm đầu tư là một loại TTTN mà tại đó các nhà quản lý phải chịu trách nhiệm kiểm soát cả về DT, CP, lợi nhuận và vốn đầu tư. Để đánh giá trách nhiệm của trung tâm đầu tư thông qua việc tính toán, phân tích các chỉ tiêu như Tỷ lệ hoàn vốn đầu tư (ROI), Thu nhập thặng dư (RI) để đánh giá trách nhiệm của trung tâm đầu tư. Trung tâm đầu tư gắn liền với các cấp quản trị cao nhất là Ban giám đốc, Hội đồng quản trị…
1.3.Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới trong kế toán CP, DT và KQKD trong DNSX
Mỗi một quốc gia đều xây dựng một hệ thống kế toán riêng phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội, hệ thống luật pháp, chính sách thuế ..... Nghiên cứu hệ thống kế toán Mỹ, Pháp để thấy rõ và sâu sắc hơn về nội dung khác biệt, nguyên nhân của sự khác biệt và rút ra bài học kinh nghiệm trong kế toán CP, DT, KQKD trong các DNSX ở Việt Nam.
1.3.1.Kế toán CP, DT và KQKD theo hệ thống kế toán Mỹ
Đặc trưng cơ bản của mô hình kế toán Mỹ là sự kết hợp của KTTC và KTQT trong cùng một bộ máy kế toán có tính liên kết chặt chẽ với nhau. Việc soạn thảo và ban hành các chuẩn mực kế toán tại Mỹ do FASB - Ủy ban các chuẩn mực KTTC đảm nhiệm. FASB là một tổ chức nghề nghiệp có cơ cấu độc
lập đã áp dụng phương pháp mở trong việc xây dựng các chuẩn mực kế toán. Các hoạt động của FASB đều “mở” cho sự tham gia, giám sát của công chúng và đảm bảo cho các ý kiến công chúng được ghi nhận và quan tâm thỏa đáng.
Hệ thống kế toán Mỹ cũng như các quốc gia thuộc trường phái Anglo – Saxon là hệ thống kế toán mở, linh hoạt với mục đích chủ yếu là phục vụ cho nhu cầu của các doanh nghiệp. Chuẩn mực kế toán có vai trò chủ yếu và chi phối toàn bộ hệ thống kế toán.
Theo hệ thống kế toán Mỹ, có hai phương pháp được sử dụng để tập hợp CP sản xuất và tính giá thành là theo công việc và quá trình sản xuất. Theo hai phương pháp này, khi xuất kho nguyên vật liệu để trực tiếp sản xuất sản phẩm, tiền lương phải trả cho lao động trực tiếp sản xuất đều được tập hợp trực tiếp vào CP sản xuất kinh doanh dở dang mở chi tiết cho từng công việc và giai đoạn sản xuất. Các CP còn lại phát sinh trong quá trình sản xuất: vật liệu gián tiếp cho sản xuất sản phẩm, tiền lương phải trả cho lao động gián tiếp sản xuất, CP khấu hao TSCĐ, CP bảo hiểm... đều được tập hợp vào tài khoản CP sản xuất chung. Để xác định và phân bổ chính xác CP, hệ thống kế toán Mỹ đã đưa ra một số phương pháp xác định: phương pháp phân bổ CP chung trên cơ sở hoạt động, phương pháp CP tiêu chuẩn, phương pháp ước tính CP trên cơ sở dự toán sau đó phân bổ và thực hiện điều chỉnh vào cuối kỳ. [35]
DT được ghi nhận ngay khi sản phẩm đã cung cấp cho người mua và lập hoá đơn, khách hàng đã thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán. Với những hợp đồng cung cấp thời gian kéo dài sẽ phát sinh những khoản DT chưa thu và chưa lập hoá đơn nhưng phải tính trước. Hệ thống kế toán Mỹ cũng cho phép ghi nhận các khoản tiền nhận trước của khách hàng như một khoản DT trả trước. Các khoản giảm giá hàng bán, hàng bán trả lại, chiết khấu thanh toán được ghi nhận là những khoản giảm trừ DT để xác định DT thuần. Chiết khấu thương mại là sự thoả thuận giữa bên mua và bên bán, không được ghi nhận trên sổ sách kế toán vì đã được giảm trừ trong giá bán thực tế khi lập hoá đơn.[35]
Cuối kỳ, kế toán lập bảng cân đối thử để kiểm tra tính cân đối kế toán của các nghiệp vụ kinh tế phát sinh, thực hiện các bút toán điều chỉnh, ghi nhận các bút toán điều chỉnh vào sổ kế toán, khoá sổ kế toán và lập báo cáo. Các bút toán điều chỉnh được thực hiện bao gồm phân bổ CP trả trước, ghi nhận CP phải trả, điều chỉnh DT nhận trước, DT phải thu. Các bút toán điều chỉnh ảnh hưởng trực tiếp đến KQKD của kỳ. Để thực hiện bút toán khoá sổ, kế toán xây dựng tài khoản tổng hợp thu nhập, thực hiện khoá sổ các tài khoản CP, DT để xác định lãi lỗ kỳ kinh doanh. [36]
KTQT Mỹ đặt trọng tâm trong việc xử lý và cung cấp thông tin phục vụ cho việc phân tích mối quan hệ CP – Khối lượng – Lợi nhuận trong doanh nghiệp.
KTQT Mỹ sử dụng các báo cáo bộ phận lập tại các TTTN để trình bày và cung cấp thông tin nội bộ cho DN trên cơ sở chi tiết các thông tin mà KTTC đã thu nhận, xử lý.
Mỹ là một nước có nền kinh tế với sự phát triển mạnh mẽ của thị trường chứng khoán nơi cung cấp tài chính chủ yếu cho các doanh nghiệp do đó đối tượng sử dụng thông tin kế toán hướng tới là các nhà đầu tư. Mặt khác, các tổ chức nghề nghiệp ở Mỹ có cơ cấu độc lập, kế toán có sự tách biệt giữa KTTC và kế toán thuế. Hệ thống kế toán Mỹ được xây dựng và phát triển trên quan điểm mở, linh hoạt, các thông tin được công khai rộng. Sự can thiệp của nhà nước chỉ dừng lại ở mức độ thúc đẩy các doanh nghiệp quan tâm đến tính trung thực, hợp lý trên BCTC và sự tuân thủ chuẩn mực kế toán. Điều đó giúp cho các doanh nghiệp được hoàn toàn chủ động trong việc xây dựng hệ thống kế toán phù hợp với loại hình kinh doanh, phục vụ cho nhu cầu cung cấp thông tin của doanh nghiệp và các đối tượng có quan tâm. Tuy nhiên, hệ thống kế toán mở rất linh hoạt nhưng chỉ phù hợp với các quốc gia phát triển, có hệ thống pháp lý hiệu quả, có sự phát triển cao của các hiệp hội và tổ chức nghề nghiệp.