đầu tư cơ sở hạ tầng, văn hoá xã hội; (iii) Các DAĐT tổng hợp phát triển kinh tế vùng [3].
+ Căn cứ vào biện pháp bảo đảm tiền vay, DAĐT được chia thành 2 loại: (i) DAĐT vay vốn không có đảm bảo bằng tài sản: Đây là những dự án được cho vay không phải thực hiện biện pháp bảo đảm mà dựa trên cơ sở sự đánh giá, tin tưởng vào khả năng tài chính, khả năng quản lý, uy tín trong quan hệ đối với Ngân hàng và tính khả thi, hiệu quả của DAĐT; (ii) DAĐT vay vốn có đảm bảo bằng tài sản: Là những DAĐT mà khách hàng vay vốn phải có tài sản cầm cố, thế chấp hoặc bảo lãnh của bên thứ ba được Ngân hàng chấp thuận [3].
+ Căn cứ vào thời gian vay vốn dự án được chia thành: Dự án ngắn hạn; Dự án trung và dài hạn.
+ Bên cạnh đó, theo nghị định số 59/2015/NĐ-CP ngày 18/06/2015 của Chính phủ về quản lý DAĐT xây dựng công trình thì DAĐT được chia làm 4 loại: Dự án quan trọng quốc gia do Quốc hội thông qua về chủ trương và cho phép đầu tư. Các dự án còn lại được phân làm 3 nhóm A, B, C để phân cấp quản lý [1].
1.1.2. Khái niệm cho vay dự án đầu tư ngân hàng thương mại
Cho vay DAĐT là một trong các nghiệp vụ cho vay tại NHTM, có thể định nghĩa cho vay DAĐT theo nhiều tiêu chí: căn cứ vào mục đích sử dụng vốn vay, thời hạn của món vay, đối tượng vay vốn .v.v. Tại NHTM, người ta chủ yếu sử dụng tiêu chí về thời hạn của món vay để phân biệt cho vay dự án với các hình thức cho vay khác [4].
Theo tiêu chí về thời hạn của món vay: Cho vay DAĐT của NHTM là các khoản cho vay vó thời hạn trên 12 tháng nhưng không dài hơn thời gian sử dụng còn lại của tài sản hình thành bằng vốn vay và vốn tự có.Việc phân định cụ thể thời hạn cho vay DAĐT tùy thuôc vào quy định của mỗi quốc gia. Ở Việt Nam, theo “Quy chế cho vay của các tổ chức tín dụng đối với khách hàng” thì, cho vay dự án đầu tư tại NHTM bao gồm cho vay trung hạn và dài hạn. “Cho vay trung hạn là các món vay có thời hạn cho vay từ trên 12 tháng đến 60 tháng; Cho vay dài hạn là các món cho vay có thời hạn cho vay từ trên 60 tháng trở lên” [4].
Có thể bạn quan tâm!
- Hoàn thiện công tác thẩm định dự án đầu tư tại ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam - Chi nhánh Huế - 1
- Hoàn thiện công tác thẩm định dự án đầu tư tại ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam - Chi nhánh Huế - 2
- Thẩm Định Kế Hoạch Kinh Doanh Và Dòng Tiền Hằng Năm Của Dự Án
- Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Công Tác Thẩm Định Dự Án Đầu Tư Tại Ngân Hàng
- Tình Hình Lao Động Vietcombank – Cn Huế Giai Đoạn 2015 – 2017
Xem toàn bộ 130 trang tài liệu này.
Theo tiêu chí về mục đích vay vốn: cho vay dự án đầu tư là hình thức cho vay nhằm mục đích bổ sung nguồn vốn trung, dài hạn hình thành nên tài sản cố định, tài sản dài hạn của người đi vay nhằm phát triển sản xuất theo chiều sâu và chiều rộng.
Từ các khái niệm trên, có thể rút ra định nghĩa về cho vay DAĐT tại NHTM như sau: Cho vay dự án đầu tư của NHTM là các khoản cho vay có thời hạn trên 12 tháng nhưng không dài hơn thời gian sử dụng còn lại của tài sản hình thành từ vốn vay, nhằm mục đích bổ sung nguồn vốn trung, dài hạn, hình thành tài sản cố định, tài sản dài hạn của người đi vay để phát triển sản xuất theo chiều sâu và chiều rộng.
1.1.3. Đặc điểm cho vay dự án đầu tư ngân hàng thương mại
Mục đích cho vay DAĐT chủ yếu để hình thành tài sản cố định
NHTM cho vay DAĐT để đầu tư cho các dự án xây dựng mới, mở rộng, cải tạo, khôi phục, đổi mới kỹ thuật, ứng dụng khoa học và công nghệ nhằm mục tiêu lợi nhuận, phù hợp với chính sách phát triển kinh tế - xã hội và phát luật của Nhà nước. Cho vay DAĐT của NHTM nhằm tài trợ vốn cho việc hình thành tài sản cố định của khách hàng. Cụ thể là:
Cho vay DAĐT trung hạn là loại hình cho vay vốn được sử dụng để tài trợ cho tài sản cố định như phương tiện vận tải, trang thiết bị, công cụ dụng cụ; cải tiến đổi mới kỹ thuật và sản phẩm; mở rộng sản xuất kinh doanh; xây dựng các dự án có quy mô nhỏ và có thời gian thu hồi vốn nhanh…
Cho vay DAĐT dài hạn là loại hình cho vay được sử dụng tài trợ cho công trình xây dựng mới và cải tạo như nhà, cầu đường, máy móc thiết bị có giá trị lới, thời gian sử dụng lâu dài.
Đối tượng cho vay chủ yếu là các chi phí cấu thành tổng mức đầu tư của dự án
Đối tượng cho vay DTDA của NHTM: là các chi phí cấu thành trong tổng mức đầu tư xây dựng mới, mở rộng, cải tạo, khôi phục, đổi mới kỹ thuật, ứng dụng khoa học và công nghệ, bao gồm: giá trị vậy tư, máy móc thiết bị, công nghệ chuyển giao, sáng chế và phát minh; chi phí nhân công; giá thuê và chuyển nhượng
đất đai; giá thuê mua các tài sản khác trong khuôn khổ Luật định; chi phí mua bảo hiểm tài sản thuộc dự án đầu tư; chi phí khác.
Nguồn vốn cho vay DAĐT của NHTM
Vốn kinh doanh nói chung và vốn cho vay DAĐT nói riêng của NHTM hình thành từ 5 nguồn: Vốn chủ sở hữu; vốn huy động dài hạn; vay nước ngoài; vốn nhận ủy thác và vốn tài trợ để cho vay theo chương trình hoặc dự án đầu tư của Nhà nước, của tổ chức kinh tế - tài chính, tín dụng - xã hội trong và ngoài nước.
Vốn chủ sở hữu hình thành do vốn góp hay do tích lũy được trong quá trình hoạt động kinh doanh có vai trò rất quan trọng, góp phần xác định quy mô và cơ cấu của NHTM, tăng khả năng mở rộng cho vay và đầu tư, đặc biệt là cho vay DAĐT. Về bản chất, NHTM không dùng nguồn vốn chủ sở hữu để cân đối nguồn vốn cho vay DAĐT, tuy nhiên vốn chủ sở hữu thường là cơ sở để xác định số tiền cho vay tối đa đối với mỗi DAĐT, các cơ quan quản lý thường không chế tỷ lệ cho vay tối đa đối với một khách hàng băng tỷ lệ cho vay tối đa trên vốn tự có, DAĐT không được vượt quá một tỷ lệ nào đó so với nguồn vốn chủ sở hữu. Tỷ lệ cho vay tối đa với 1 khách hàng tại Việt Nam hiện nay là 15%.
1.2. Công tác thẩm định dự án đầu tư
1.2.1. Khái niệm và vai trò của thẩm định dự án đầu tư
1.2.1.1. Khái niệm của thẩm định dự án đầu tư
Hoạt động đầu tư đã đóng một vai trò không nhỏ vào việc xây dựng và phát triển ổn định kinh tế xã hội. Để phát huy được mặt tích cực của các DAĐT và hạn chế được những mặt tiêu cực của nó thì khi chấp thuận việc thực hiện một dự án, người ta thường phân tích đánh giá, xem xét dự án về các mặt tài chính, kinh tế xã hội… Để có được một quyết định đúng đắn khi đưa dự án vào thực hiện. Những hoạt động xem xét, đánh giá dự án nhằm những mục tiêu nói trên được gọi là “thẩm định dự án” [5].
Vậy thẩm định DAĐT là việc tổ chức xem xét một cách khách quan có khoa học toàn diện các nội dung cơ bản ảnh hưởng trực tiếp tới tính khả thi của một dự án. Từ đó ra quyết định đầu tư và cho phép đầu tư. Hay nói cách khác, thẩm định
DAĐT chính là việc xác định lại tính khả thi, hiệu quả tài chính của dự án: Đánh giá các yếu tố rủi ro ảnh hưởng đến khả năng trả nợ vay ngân hàng, đảm bảo trong quá trình cho vay dự án phải thu hồi được nợ gốc và lãi .
1.2.1.2. Vai trò của thẩm định dự án đầu tư
Đối với chủ đầu tư: Ngân hàng với kinh nghiệm của mình trong thẩm định DAĐT có thể tư vấn cho doanh nghiệp phương án đầu tư có hiệu quả mà bản thân doanh nghiệp do thiếu khả năng phân tích tổng hợp, thiếu thông tin không thể lựa chọn được.
Đối với cơ quan quản lý nhà nước: Thẩm định DAĐT giúp các cơ quan quản lý nhà nước đánh giá được sự cần thiết và tính phù hợp của dự án đối với quy hoạch phát triển chung của ngành, địa phương và cả nước trên các mặt: mục tiêu, quy mô, quy hoạch và hiệu quả.
Đối với ngân hàng: Nếu ngân hàng làm tốt công tác thẩm định DAĐT sẽ tạo tiền đề cho việc thu hồi cả vốn lẫn lãi đúng hạn, tạo điều kiện cho vốn tín dụng luân chuyển nhanh, an toàn và hiệu quả. Bởi vậy thẩm định DAĐT là việc hết sức cần thiết và có ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng, thể hiện: (1) Rút ra các kết luận chính xác về tính khả thi, hiệu quả kinh tế của phương án hoặc dự án vay vốn, khả năng trả nợ, những rủi ro có thể xẩy ra để quyết định cho vay hoặc từ chối cho vay một cách đúng đắn và chính xác nhất. (2) Tham gia góp ý cho chủ đầu tư về phương án sản xuất kinh doanh, tạo tiền đề để đảm bảo hiệu quả cho vay, thu được nợ gốc và lãi đúng hạn và hạn chế rủi ro tới mức thấp nhất.
Vì vậy, trong công tác thẩm định DAĐT, phải rất thận trọng để đem lại sự an toàn cần thiết cho ngân hàng, nâng cao chất lượng tín dụng đồng thời không bỏ lỡ cơ hội đầu tư có lãi, phục vụ khách hàng đầu tư có hiệu quả [11].
1.2.2. Quy trình thẩm định dự án đầu tư
Các công đoạn chính của quy trình thẩm định dự án đầu tư tại các NHTM Việt Nam thông thường được thực hiện như sau:
Bước 1: Tiếp cận kiểm tra hồ sơ dự án xin vay vốn: Nếu hồ sơ vay vốn chưa đủ cơ sở để thẩm định thì chuyển lại để cán bộ thẩm định hướng dẫn khách hàng
hoàn chỉnh, bổ sung hồ sơ; nếu đã đủ cơ sở thẩm định thì ký giao nhận hồ sơ, vào sổ
theo dõi và giao hồ sơ cho cán bộ trực tiếp thẩm định.
Bước 2: Thẩm định mức độ chính xác trong tính toán nhu cầu về vốn đầu tư, dự tính các yếu tố có thể tác động làm thay đổi tổng mức đầu tư. Bước 3: Thẩm định nguồn tài trợ có thể chấp nhận được.
Bước 4: Đánh giá độ tin cậy về việc tính toán khả năng thu nhập, các khoản chi phí tài chính.
Bước 5: Thẩm định các chỉ tiêu về mặt hiệu quả của dự án.
Bước 6: Thẩm định phương án vay và trả nợ.
Bước 7: Lập báo cáo thẩm định dự án và gửi các cơ quan, bộ phận theo quy
định. Theo dõi quá trình thực hiện dự án, thực hiện tổng kết, đúc rút kinh nghiệm.
1.2.3. Nội dung thẩm định dự án đầu tư
1.2.3.1. Thẩm định hồ sơ pháp lý của dự án
Khi thẩm định hồ sơ pháp lý của dự án thì cần phải xem xét xem dự án có phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của đất nước, địa phương. Phù hợp với quy hoạch phát triển ngành, địa phương có liên quan.
Dự án có thuộc đối tượng sản xuất kinh doanh trong đăng ký kinh doanh không. Mỗi dự án bao giờ cũng có bộ hồ sơ pháp lý. Hồ sơ pháp lý của dự án bao gồm các giấy phép, quyết định liên quan đến dự án mà chủ đầu tư đang thực hiện như: Báo cáo nghiên cứu khả thi, quyết định phê duyệt luận chứng kinh tế kỹ thuật của cấp có thẩm quyền phê duyệt, giấy phép xây dựng hoặc giấy chứng nhận đầu tư của cấp có thẩm quyền phê duyệt, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc hợp đồng thuê đất, các văn bản pháp lý khác có liên quan đến dự án đầu tư...
1.2.3.2. Thẩm định sự cần thiết của dự án
Khi tiến hành thẩm định dự án, trước hết ngân hàng phải xem xét đến các mục tiêu, định hướng của dự án bởi vì dự án được thực hiện sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống nhân dân, đến toàn bộ nền kinh tế, xã hội, ảnh hưởng đến cung cầu hàng hoá, hoạt động xuất nhập khẩu trong nước, môi trường tự nhiên... Như vậy, cần phải thẩm định đánh giá xem xét dự án có thật sự cần thiết trong tình hình
hiện nay không, có phù hợp với xu hướng phát triển ngành của vùng, đất nước không, có tuân thủ đúng quy hoạch, kế hoạch đầu tư, định hướng phát triển của bộ ngành... Muốn vậy, ngân hàng cần đối chiếu mục tiêu và phương hướng phát triển của dự án với mục tiêu, định hướng chung của ngành, địa phương và những quyết định của nhà nước trong tương lai. Tuỳ theo từng dự án theo đuổi mục tiêu nào mà ngân hàng sẽ chú trọng đến mục tiêu đó. Song điều quan trọng là dự án đã đem lại lợi ích cho chủ đầu tư, ngân hàng và xã hội [14].
1.2.3.3. Thẩm định phương diện thị trường
Thẩm định phương diện thị trường của dự án là để xác định các yếu tố: Thị trường cung cầu sản phẩm hoặc dịch vụ mà dự án sẽ mang lại tại thời điểm hiện tại, tiềm năng phát triển của thị trường này trong tương lai, các yếu tố kinh tế và phi kinh tế tác động đến nhu cầu về sản phẩm và dịch vụ mà dự án mang lại như thế nào. Các biện pháp khuyến thị và tiếp thị cần thiết giúp cho việc tiêu thụ sản phẩm hoặc tiến hành các hoạt động dịch vụ của dự án được thuận lợi. Khả năng canh tranh của các sản phẩm cùng loại hoặc các sản phẩm sẽ được sản xuất sau này.
Thẩm định môi trường của dự án cán bộ thẩm định phải thẩm định các nội dung sau [4]:
- Xem xét mức tiêu thụ hiện tại và trong quá khứ
- Dự báo nhu cầu thị trường trong tương lai
- Vấn đề về tiếp thị và khuyến thị
- Xem xét khả năng cạnh tranh của sản phẩm
1.2.3.4. Thẩm định phương diện kỹ thuật
Thẩm định về phương diện kỹ thuật khá phức tạp đòi hỏi cán bộ thẩm định phải có một trình độ hiểu biết nhất định về các khía cạnh kỹ thuật của dự án. Tuỳ từng dự án mà nội dung phân tích về phương diện kỹ thuật khác nhau. Không có mô hình nào có thể áp dụng chung trong việc phân tích phương diện kỹ thuật. Tuy nhiên, để phân tích đánh giá được kỹ thuật của dự án người ta thường đánh giá ở các khía cạnh như đặc tính của sản phẩm và đánh giá chất lượng, phương pháp và kỹ thuật sản xuất. Đặc tính và công suất của máy móc thiết bị, đặc tính và nhu cầu
nguyên vật liệu, cơ sở hạ tầng, địa điểm xây dựng nhà máy, vấn đề về xử lý chất thải... Do đó, tuỳ theo từng dự án cụ thể mà có thể xem xét các kỹ thuật của dự án ở những góc độ khác nhau [4].
Khi đánh giá về phương diện kỹ thuật của dự án cán bộ thẩm định đi vào các
nội dung sau:
- Đánh giá đặc tính và chất lượng của sản phẩm
Để thực hiện được việc đánh giá đặc tính của sản phẩm thì cần xem về mặt lý học, hoá học của sản phẩm. So sánh với các sản phẩm tương tự trong nước và ngoài nước. Các hình thức đóng gói bao bì, các công dụng và cách sử dụng sản phẩm. Các sản phẩm: sản phẩm chính, sản phẩm phụ và chất thải... Xét về mặt chất lượng của sản phẩm thì cần có các phương pháp và phương tiện để kiểm tra sản phẩm. Xác định các yêu cầu về chất lượng sản phẩm phải đạt, dự kiến bộ phận kiểm tra chất lượng sau khi đã xác định phương pháp kiểm tra.
- Phương pháp và kỹ thuật sản xuất, công suất của máy móc thiết bị
Để tạo ra sản phẩm có nhiều phương pháp và kỹ thuật sản xuất khác nhau. Mỗi một loại hình kỹ thuật sẽ cho ra sản phẩm và đặc tính chất lượng và giá thành khác nhau. Vì vậy việc nghiên cứu để lựa chọn ra được phương pháp và kỹ thuật sản xuất phù hợp với loại sản phẩm của dự án, phù hợp với điều kiện máy móc thiết bị, phù hợp với khả năng tài chính của chủ đầu tư cũng là một yếu tố quan trọng cho sự thành công của dự án.
Việc nghiên cứu kỹ thuật và phương pháp sản xuất cần đươc tiến hành theo các khía cạnh sau: Bản chất của kỹ thuật sản xuất, yêu cầu về tay nghề của người sử dụng, khả năng tiếp thu kỹ thuật, yêu cầu về nguyên vật liệu, năng lượng sử dụng. Khả năng chuyển sang sản xuất mặt hàng khác trong trường hợp mặt hàng cũ không còn nhu cầu hoặc chức năng không còn phù hợp nữa. Nhà cung cấp, cách thức cung cấp và quyền sở hữu công nghiệp, yêu cầu về vốn đầu tư và ngoại tệ.
- Thẩm định việc cung cấp các yếu tố đầu vào khác
Để đánh giá việc cung cấp các yếu tố đầu vào cán bộ thẩm định phải kiểm tra việc tính toán tổng nhu cầu hàng năm về nguyên vật liệu chủ yếu năng lượng, điện,
nước...trên cơ sở các định mức kinh tế kỹ thuật, so sánh mức tiêu hao thực tế, kinh nghiệm các doanh nghiệp đang hoạt động.
Đối với nguyên vật liệu thời vụ cần tính toán mức dự trữ hợp lý để đảm bảo cung cấp nguyên vật liệu thường xuyên, tránh ứ đọng vốn.
Đối với nguyên vật liệu nhập khẩu hoặc khan hiếm cần xem xét khả năng cung ứng thực tế trong và ngoài nước qua các hợp đồng hoặc các văn bản cam kết của doanh nghiệp với các nhà cung cấp về số lượng quy cách, chất lượng, giá cả, điêu kiện giao hàng, thanh toán...
Đối với các dự án khai thác sử dụng tài nguyên khoáng sản, phải kiểm tra tính đúng đắn của các tài liệu điều tra, thăm dò khảo sát, đánh giá phân tích về trữ lượng, hàm lượng chất lượng tài nguyên, giấy phép khai thác khoáng sản của cấp có thẩm quyền để đảm bảo dự án hoạt động lâu dài.
- Thẩm định về lựa chọn địa điểm xây dựng của dự án
Việc lựa chọn địa điểm đầu tư đúng cũng góp một phần vào sự thành công của dự án. Chính vì vậy việc lựa chọn địa điểm đầu tư cần phải được cân nhắc cẩn thận và đảm bảo các nguyên tắc: Địa điểm gần nơi cung cấp nguyên vật liệu chủ yếu hoặc gần nơi tiêu thụ chính. Gần nơi có giao thông thuận tiện (đường bộ, đường biển, đường sông...) có chi phí vận chuyển hợp lý để hạ giá thành sản phẩm. Tận dụng cơ sở hạ tầng có sẵn: đường sá, bến cảng, điện nước...
1.2.3.5. Thẩm định nội dung tổ chức, quản lý thực hiện vận hành dự án
Trong phần này cán bộ thẩm định cần phải nắm được rõ mô hình thực hiện quản lý dự án của chủ đầu tư như thế nào. Cách thức quản lý ra sao, năng lực của chủ đầu tư. Nguồn lao động của dự án. Để từ đấy có thể tư vấn cho chủ đầu tư cách thức nào là hợp lý và phù hợp với dự án nhất [4].
1.2.3.6. Thẩm định tài chính của dự án
Tài chính dự án là một phần nội dung quan trọng trong tổng thể của dự án. Bất kỳ một dự án nào dù là tiền khả thi hay khả thi thì cần phải tiến hành phân tích tình hình tài chính của dự án. Đối với ngân hàng phân tích tình hình tài chính lại có ý nghĩa rất quan trọng trong việc đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng. Chính vì