Thẩm Định Kế Hoạch Kinh Doanh Và Dòng Tiền Hằng Năm Của Dự Án


vậy đây là một công việc mà các bộ thẩm định không thể bỏ qua trong thẩm định dự án đầu tư. Ngoài ra thông qua việc phân tích tài chính của dự án còn cho ta xác định được quy mô đầu tư, cơ cấu các loại vốn, nguồn tài trợ cho dự án, tính toán thu chi lỗ lãi những lợi ích thiết thực mang lại cho nhà đầu tư và cả cộng đồng [4].

- Nhóm 1: Khả năng thanh khoản

+ Khả năng thanh toán hiện hành = Tài sản ngắn hạn/Nợ ngắn hạn

+ Khả năng thanh toán nhanh = (Tài sản ngắn hạn – Tồn kho)/Nợ ngắn hạn

+ Khả năng thanh toán tức thời = Tiền/Nợ đến hạn

- Nhóm 2: Các chỉ số về cơ cấu

+ Hệ số nợ = Tổng nợ/Tổng tài sản

+ Hệ số tự chủ tài chính = Vốn chủ sở hữu/Tổng nguồn vốn

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 130 trang tài liệu này.

- Nhóm 3: Các chỉ số về hoạt động

+ Vòng quay hàng tốn kho = Giá vốn hàng bán/Tồn kho bình quân

Hoàn thiện công tác thẩm định dự án đầu tư tại ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam - Chi nhánh Huế - 4

+ Kỳ thu tiền bình quân = Khoản phải thu x 360/Doanh thu

+ Vòng quay vốn = Tổng doanh thu/Tổng tài sản

- Nhóm 4: Các chỉ số sinh lợi

+ Hệ số sinh lợi doanh thu = Lợi nhuận sau thuế/Doanh thu thuần

+ Hệ số sinh lợi tổng tài sản = (Lợi nhuận sau thuế + Lãi phải trả)/ Tổng tài sản

+ Hệ số sinh lợi vốn chủ sở hữu = Lợi nhuận sau thuế/Vốn chủ sở hữu

1.2.3.7. Thẩm định khả năng hoàn trả vốn của dự án

Trên cơ sở tính toán các chỉ tiêu tài chính và các kết luận về tính khả thi, hiệu quả của DAĐT sẽ là căn cứ quan trọng cho biết khả năng hoàn trả nợ vay của chủ đầu tư. Về cơ bản thì nguồn trả nợ Ngân hàng chính là từ nguồn thu nhập hàng năm của của dự án bao gồm lợi nhuận, khấu hao và thu hồi vốn lưu động ròng, thu hồi từ thanh lý TSCĐ ở năm cuối cùng của dự án. Vì vậy vấn đề cốt lõi là cán bộ thẩm định phải xác định được các dòng tiền vào, dòng tiền ra, thu nhập của dự án chính xác để có các quyết định về thời hạn cho vay, các kỳ hạn trả nợ thích hợp.

Trong quá trình đánh giá cần xem xét tình hình tài chính của chủ đầu tư, uy

tín trong quan hệ tín dụng với Ngân hàng, đặc biệt quan tâm đến khả năng và dòng


tiền của dự án. Đây là những căn cứ quan trọng để đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng. Thực tế cho thấy nhiều khi thẩm định khả năng trả nợ không chính xác vì vậy khách hàng chưa có khả năng trả nợ hoặc không đủ khả năng trả nợ, dẫn đến Ngân hàng phải điều chỉnh, cơ cấu lại thời hạn trả nợ, gây khó khăn cho cả Ngân hàng và khách hàng vay.

1.2.3.8. Thẩm định kế hoạch kinh doanh và dòng tiền hằng năm của dự án

Kế hoạch sản xuất kinh doanh của dự án là những dự trù về hoạt động của dự án như số ca làm việc, công suất dự kiến, mức tiêu hao nguyên vật liệu, giá vật tư, giá bán hàng, các chi phí hoạt động. Những yếu tố này là cơ sở cho việc xác định dòng tiền, tính toán các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả của dự án.

Dòng tiền của dự án được hiểu là các khoản thu, chi được kỳ vọng xuất hiện tại các mốc thời gian khác nhau trong suốt thời kỳ hoạt động của dự án. Khi thẩm định dòng tiền phải dựa trên các nguyên tắc cơ bản: (1) Thứ nhất: Phải xem xét giá trị thời gian của tiền. Do tiền có giá trị thời gian nên cần căn cứ vào thời điểm xuất hiện dòng tiền và quy chúng về một mốc thời gian để so sánh, đánh giá. (2) Thứ hai: Phân biệt dòng tiền thực và dòng tiền kế toán. Dòng tiền lợi nhuận kế toán được xác định dựa trên thu nhập và chi phí được chấp nhận còn dòng tiền của dự án xác định trên cơ sở dòng tiền thu vào và chi ra của dự án. (3) Thứ ba: Dòng tiền của dự án phải là dòng tiền phù hợp. Dòng tiền phù hợp là một sự thay đổi trong tổng dòng tiền trong tương lai của Doanh nghiệp mà được coi là hệ quả trực tiếp của việc thực hiện dự án.

Việc thẩm định dòng tiền cần đặc biệt quan tâm đến các dòng tiền vào và dòng tiền ra của dự án:

- Dòng tiền vào của dự án

+ Doanh thu của dự án : Là tổng giá trị hàng hoá và dịch vụ được tiêu thụ trong năm dự kiến. Để tính toán, cần xác định được tổng khối lượng sản phẩm dự kiến đưa vào lưu thông và giá bán một đơn vị sản phẩm.

+ Dòng tiền từ hoạt động kinh doanh: Dòng tiền này được xác định dựa vào số chênh lệch giữa doanh thu dự án và từ hoạt động thường xuyên trong kỳ khi dự


án được đưa vào. Đối với DAĐT trong kinh doanh tạo ra doanh thu tiêu thụ sản phẩm hay lao vụ thì dòng tiền từ hoạt động kinh doanh được xác định bằng doanh thu thuần trừ đi chi phí hoạt động thường xuyên (Không kể khấu hao TSCĐ) và thuế thu nhập doanh nghiệp.

+ Khoản thu hồi vốn lưu động ròng: Trong dòng tiền đầu tư, chúng ta đề cập đến khoản đầu tư vào tài sản lưu động ròng (Vốn lưu động ban đầu). Khi dự án kết thúc, hàng tồn kho được bán hết và không được thay thế, các khoản phải thu được chuyển thành tiền mặt, Doanh nghiệp sẽ thu được các khoản đã đầu tư vào tài sản lưu động ròng. Dòng tiền thu hồi vốn lưu động ròng này được cộng vào dòng tiền vào của dự án.

+ Thu hồi giá trị TSCĐ: Phần lớn các dự án đều có giá trị thu hồi TSCĐ, các phương tiện, thiết bị sản xuất, nhà xưởng khi dự án kết thúc còn có một giá trị thị trường nhất định. Khi chúng được bán sẽ xuất hiện một dòng tiền thu cho dự án. Dòng tiền này cũng được cộng vào dòng tiền vào của dự án.

Khi dự án được tài trợ bằng vốn vay Ngân Hàng và vốn tự có của chủ đầu tư

thì việc xác định CF (dòng tiền dòng) sẽ được tiến hành như sau:

+ Nếu việc thanh toán được thực hiện theo NKCĐ hàng năm: CF = LNST + KH - Trả vốn vay (Quan điểm của chủ sở hữu) CF = LNST + KH + Lãi vay (Quan điểm của ngân hàng)

+ Nếu thanh toán dưới hình thức trả lãi hàng năm, trả gốc vào cuối năm của

dự án.


CF = LNST + KH (Quan điểm của chủ sở hữu)

CF = LNST + KH + Lãi vay (Quan điểm của ngân hàng)

Khi vốn đầu tư vào dự án hoàn toàn là vốn vay ngân hàng thì việc xác định

CF: thì các dòng tiền giống với các dòng tiền ròng trong trường hợp dự án được tài trợ hỗn hợp.

- Dòng tiền ra của dự án

+ Chi phí đầu tư tài sản cố định: Đây là loại đầu tư nhằm mua sắm, cải tạo mở rộng TSCĐ như đầu tư xây lắp, đầu tư máy móc thiết bị, đầu tư TSCĐ khác.


Chi phí cho lọai này không chỉ đơn giản tính là chi phí đầu tư qua giá mua mà phải tính thêm vào đó tất cả những chi phí liên quan cho đến khi đưa thiết bị vào hoạt động (chi phí vận chuyển , bảo hiểm, lắp đặt, vận hành thử)

+ Chi phí đầu tư vào tài sản lưu động ròng: Hầu hết các dự án không những đòi hỏi đầu tư vào TSCĐ mà còn đòi hỏi đầu tư vào tài sản lưu động ròng. Vốn lưu động ròng được xác định bằng tổng tài sản lưu động trừ tổng nợ ngắn hạn. Phần vốn đầu tư này được coi là vốn lưu động ban đầu và sẽ thu hồi khi kết thúc DA (Bởi đặc tính của nó là không được tính khấu hao)

+ Chi phí cơ hội: Là chi phí của khả năng sinh lợi tốt nhất bị bỏ qua khi thực hiện dự án. Trong nhiều trường hợp, chủ dự án đã sở hữu sẵn một tài sản hữu dụng cho việc thực hiện dự án, điều đó có nghĩa là, Doanh nghiệp không phải bỏ tiền ra để mua những tài sản này. Tuy nhiên khi sử dụng tài sản này vào dự án, Doanh nghiệp đã từ bỏ cơ hội khác sử dụng tài sản đó tạo ra thu nhập. Vì vậy, giá trị thị trường của tài sản đó tại thời điểm đầu tư phải được đưa vào chi phí đầu tư, nó phản ánh chi phí cơ hội chứ không phải chi phí xuất quỹ.

- Dòng tiền ròng của dự án

Dòng tiền ròng của DA = Dòng tiền vào của DA - Dòng tiền ra của DA

Để thuận tiện cho việc tính toán thông thường người ta giả định thời điểm bỏ khoản vốn đầu tư đầu tiên được xác định là thời điểm 0, dòng tiền vào hoặc dòng tiền ra của dự án trong kỳ được xác định ở thời điểm cuối kỳ đó.

Thông thường dòng tiền ròng của dự án có giá trị âm trong những năm đầu, khi các khoản đầu tư ban đầu đã được thực hiện mà chưa thu được nhiều lợi ích từ việc bán các sản phẩm hàng hoá, dịch vụ của dư án. Sau một thời gian, khi sản phẩm hàng hoá, dịch vụ đã được tiêu thụ trên thị trường, dòng tiền thu của dự án sẽ lớn hơn dòng chi phí bỏ ra và dòng tiền ròng của dự án sẽ dương. Chỉ tiêu này có xu hướng tăng dần trong những năm tiếp theo của dự án.

Đứng trên lý thuyết, đánh giá hiệu quả dàng nhưng thực tế việc xác định các chỉ tiêu này không đơn giản. Việc xác định Doanh thu qua các năm khi dự án đi vào hoạt động chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố như khuynh hướng tăng trưởng kinh tế,


giá cả, thái độ của người tiêu dùng, phản ứng đối thủ cạnh tranh. Sai lầm trong xác định dòng tiền sẽ dẫn đến những kết luận sai về chất lượng hiệu quả DAĐT và hậu quả sẽ là một quyết định đầu tư sai lầm.

1.2.3.9. Đánh giá tỷ lệ chiết khấu

Tỷ lệ chiết khấu là lãi suất sinh lời cần thiết mà nhà đầu tư yêu cầu đối với dự án, nó cũng là cơ sở để chiết khấu các dòng tiền của dự án trong việc tính giá trị hiện tại. Nếu dự án được tài trợ từ nhiều nguồn vốn lãi suất chiết khấu được chọn là lãi suất trung bình có trọng số: rWACC

Trong đó: ft : Tỷ trọng nguồn vốn t trong tổng vốn đầu tư.

ft : Chi phí sử dụng nguồn vốn t. n : Số nguồn vốn được sử dụng.

1.2.3.10. Đánh giá mức độ rủi ro của dự án

Rủi ro là sự không chắc chắn, nó chính là sự sai biệt giá trị thực tế so với giá trị kỳ vọng. Rủi ro của dự án có thể hiểu là sự sai biệt lợi nhuận thực tế so với lợi nhuận kỳ vọng.

Rủi ro luôn tiềm ẩn và có thể có những tác động, ảnh hưởng đến hiệu quả của dự án. Vì vậy khi phân tích phải hết sức chú ý và có phương pháp phân tích đánh giá thích hợp. Có thể chia rủi ro của dự án thành 2 loại:

- Rủi ro loại 1: Đây là rủi ro riêng của chính bản thân dự án, tức là rủi ro của một tài sản khi nó là tài sản duy nhất của Doanh nghiệp. Rủi ro này được đo bằng sự biến thiên lãi suất dự kiến của dự án. Khi rủi ro này xảy ra sẽ làm sai biệt lợi nhuận thực tế so với lợi nhuận kỳ vọng của dự án.

- Rủi ro loại 2: Loại rủi ro này thể hiện ở sự ảnh hưởng của dự án đối với rủi ro của Doanh nghiệp. Đối với những Doanh nghiệp đang có nguồn thu nhập nhất định khi đầu tư thêm vào dự án sự biến động thu nhập do dự án mang lại dẫn đến sự biến động thu nhập của Doanh nghiệp. Khi đánh giá cần chú ý xác định mức độ ảnh hưởng của loại rủi ro này tới thu nhập của Doanh nghiệp.


Khi đã đi vào hoạt động thì thu nhập của dự án chính là nguồn để chủ đầu tư trả nợ Ngân hàng. Trong suốt quá trình vận hành dự án luôn tiềm ẩn các rủi ro có thể xảy ra, khả năng đó càng cao do DAĐT thường được tiến hành trong nhiều năm.

1.3. Các chỉ tiêu đánh giá

1.3.1. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả dự án đầu tư

Để đánh giá hiệu quả các dự án đầu tư cần sử dụng các chỉ tiêu sau:

- Điểm hoà vốn

Điểm hoà vốn là điểm mà tại đó doanh thu bằng với chi phí bỏ ra. Về mặt toán học thì điểm hoà vốn là giao điểm của đường biểu diễn doanh thu và chi phí. Tổng chi phí của dự án bao bồm chi phí cố định (Fixed costs- FC) là những chi phí không thay đổi khi sản lượng thay đổi và biến phí (Variable costs- VC) là những chi phí thay đổi khi sản lượng thay đổi.

Phân tích điểm hoà vốn là quá trình áp dụng các công cụ phân tích độ an toàn tài chính của dự án thông qua việc xác định điểm hoà vốn. Điểm này biểu thị sản lượng hoà vốn, doanh thu hoà vốn và công suất hoà vốn.

+ Sản lượng hoà vốn (QHV): Là sản lượng cần thiết mà dự án phải đạt được để với mức sản lượng này doanh thu vừa đủ bù đắp chi phí.

QHV = FC / (P – V)

Trong đó: P : Giá bán một đơn vị sản phẩm; FC : Tổng định phí; V : Biến phí cho một đơn vị sảm phẩm

+ Doanh thu hoà vốn: Là doanh thu cần thiết mà dự án cần đạt được để đảm bảo vừa đủ bù đắp chi phí.

DTHV = FC/(1- Tổng biến phí/Doanh thu thuần)

+ Công suất hoà vốn là công suất hoạt động cần thiết mà dự án cần phải đạt được để đảm bảo vừa đủ bù đắp chi phí.

Công suất hoà vốn = (QHV/Q)x100

Trong đó: Q là sản lượng tính theo năm.

- Tỷ suất lợi nhuận bình quân của vốn đầu tư

Tỷ suất lợi nhuận bình quân vốn đầu tư là mối quan hệ giữa số lợi nhuận bình quân thu được hàng năm và số vốn đầu tư bình quân hàng năm.


Tỷ suất lợi nhuận bình quân vốn đầu tư = (Lợi nhuận bình quân thu

được hằng năm / Vốn đầu tư bình quân hằng năm)

- Giá trị hiện tại thuần (NPV)


Trong đó t thời gian tính dòng tiền n tổng thời gian thực hiện dự án r tỉ lệ 2

Trong đó: t - thời gian tính dòng tiền; n - tổng thời gian thực hiện dự án; r - tỉ lệ chiết khấu; Ct - dòng tiền thuần tại thời gian t; C0 - chi phí ban đầu để thực hiện.

Nếu NPV > 0, DAĐT có tổng các khoản thu lớn hơn tổng các khoản chi phí sau khi đã quy đổi về mặt bằng hiện tại, NPV càng lớn thì hiệu quả tài chính càng cao, dự án càng hấp dẫn. Nếu NPV= 0 thì tuỳ vào tình hình cụ thể mà quyết định có đầu tư hay tài trợ cho dự án hay không. Nếu NPV< 0 thì thu nhập của dự án không đủ bù đắp chi phí bỏ ra, dự án không được chấp nhận. Đối với Ngân hàng vấn đề được quan tâm là khả năng thu hồi vốn vay đầy đủ, đúng hạn chứ không phải ròng tiền ròng suốt đời dự án. Vì vậy, NPV chỉ là cửa ngõ ban đầu đánh giá về dự án, không phải yếu tố quyết định đối với việc ra quyết định tài trợ cho dự án.

- Tỷ suất hoàn vốn nội bộ (Internal rate of return- IRR)

Tỷ suất hoàn vốn nội bộ là một chỉ tiêu được dùng phổ biến nhất hiện nay. IRR là tỷ lệ chiết khấu mà với mức lãi suất đó giá trị hiện tại của khoản thu trong tương lai do đầu tư mang lại sẽ bằng với giá trị hiện tại của vốn đầu tư (NPV= 0).

Trong đó: r2 > r1 và r2 - r1 ≤ 5%, NPV1 > 0 và gần 0, NPV2 < 0 và gần 0. Nếu IRR < r giới hạn thì dự án đầu tư không có hiệu quả.

Nếu IRR = r giới hạn thì tuỳ theo điều kiện cụ thể để quyết định đầu tư.

Nếu IRR > r giới hạn thì dự án đầu tư có hiệu quả.

r giới hạn chính là chi phí sử dụng vốn bình quân của dự án đó.


1.3.2. Các chỉ tiêu đánh giá tình hình cho vay và hiệu quả cho vay các dự án

đầu tư

- Quan điểm về chất lượng đánh giá hiệu quả của dự án đầu tư

Khi đánh giá hiệu quả dự án đầu tư, cán bộ thẩm định phải xem xét tất cả các khía cạnh liên quan đến dự án đầu tư, phải phân tích một cách khách quan và chính xác khi xem xét và đánh giá các khía cạnh liên quan đến dự án, dựa trên các văn bản chính sách của nhà nước đã quy định để đưa ra kết luận về tính khả thi của dự án, sau đó quyết định có tài trợ hay không đối với dự án.

Trong khi tiến hành đánh giá dự án, cán bộ thẩm định phải xem xét dự án có mang lại lợi nhuận hay không, nguồn để trả nợ có khả năng trả nợ hết cho ngân hàng hay không, tình hình tài chính của dự án có lành mạnh hay không, thời gian trả nợ của dự án là bao lâu. Tính chính xác khách quan và linh hoạt trong quá trình xem xét đánh giá các vấn đề đó thể hiện rằng công tác thẩm định đã đạt được chất lượng tốt hay không.

Do vậy, đánh giá hiệu quả DAĐT của NHTM là tất cả những dự án cho vay của ngân hàng đảm bảo chất lượng tốt, khả năng sinh lời, khả năng thu nợ.

- Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả của hoạt động cho vay

+ Doanh số cho vay theo dự án: là chỉ tiêu phản ánh số tiền mà ngân hàng giải ngân cho các dự án trên cơ sở các hợp đồng tín dụng trong một thời gian nhất định thường là 1 năm.

+ Doanh số thu nợ: phản ánh số tiền mà ngân hàng thu được từ dự án đã vay vốn ngân hàng trong một thời gian nhất định.

+ Dư nợ cho vay theo dự án: là chỉ tiêu phản ánh số tiền mà các dự án hiện đang sử dụng, chưa đến hạn trả nợ ngân hàng. Dư nợ càng cao phản ánh tăng trưởng quy mô tín dụng ngân hàng càng lớn, hiệu suất sử dụng vốn của ngân hàng cao.

+ Nợ quá hạn: Chỉ tiêu nợ quá hạn chỉ số lượng vốn đã đến hạn nhưng khách hàng chưa thực hiện thanh toán cho ngân hàng theo thời hạn được quy định.

+ Tỷ lệ nợ quá hạn : Việc xác định nợ quá hạn là yếu tố rất quan trọng trong việc đánh giá chất lượng tín dụng của ngân hàng. Do vậy, phải giảm tỷ lệ nợ quá

Xem tất cả 130 trang.

Ngày đăng: 11/05/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí