- Đáp ứng điều kiện bên trong của tập đoàn: quy mô vốn đăng ký của công ty mẹ, tổng vốn đăng ký của cả tập đoàn, số lượng doanh nghiệp thành viên tối thiểu, tư cách pháp nhân của các công ty thành viên.
- Điều kiện về nguồn nhân lực, bộ máy quản lý, trình độ khoa học- công nghệ.
Với bối cảnh kinh tế đang phục hồi sau khủng hoảng như hiện nay, việc xem xét và cân nhắc những điều kiện trên càng hết sức quan trọng. Có thể tóm tắt thành bốn điều kiện chính:
- Về quy mô sản xuất, trình độ tích tụ sản xuất: Mô hình TĐKTNN tại Việt Nam muốn hoạt động hiệu quả phải rút kinh nghiệm từ mô hình tổng công ty 91, nghĩa là trình độ sản xuất phải phát triển và số vốn góp phải đủ lớn (ít nhất là
12.000 tỷ đồng).
- Về mối quan hệ liên kết, cơ cấu quản lý: Mối quan hệ giữa công ty mẹ- công ty con phải là mối quan hệ chặt chẽ, phân cấp rõ quyền hạn, trách nhiệm, nghĩa vụ của công ty mẹ đối với công ty con và ngược lại. Đồng thời phải tách bạch vai trò của Hội đồng quản trị và Tổng giám đốc.
- Về môi trường kinh doanh: Đây là yếu tố khách quan thuộc về nhà nước. Trong những năm vừa qua, nước ta đã mở cửa thị trường, là thành viên của WTO và gần đây nhất là chủ tịch ASEAN, vì thế môi trường kinh doanh tại Việt nam ngày càng được đánh giá là hấp dẫn. Môi trường pháp lý cần phải sửa đổi, bổ sung để phù hợp với xu thế toàn cầu hóa như: các hàng rào thương mại dần được rỡ bỏ, các chính sách thương mại thông thoáng hơn, hành lang pháp lý không còn cứng nhắc như trước.
- Về trình độ đội ngũ quản lý: nguồn nhân lực cấp cao phải được đào tạo, thường xuyên trau dồi và học hỏi kiến thức của các nước bạn thì mới có thể vận hành được bộ máy khổng lồ của một TĐKTNN. Nếu chỉ dựa trên 3 yếu tố trên mà lơ là công tác đào tạo nguồn nhân lực thì TĐKTNN chỉ có “thế” chứ chưa có “lực”.
b. Cơ cấu tổ chức của tập đoàn kinh tế nhà nước
Sơ đồ 1.1: Bốn yếu tố quyết định đến mô hình TĐKTNN
Có thể bạn quan tâm!
- Hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính trong các tập đoàn kinh tế nhà nước ở Việt Nam hiện nay - 1
- Hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính trong các tập đoàn kinh tế nhà nước ở Việt Nam hiện nay - 2
- Cơ Chế Quản Lý, Sử Dụng Vốn Và Tài Sản
- Những Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cơ Chế Quản Lý Tài Chính Trong Tập Đoàn Kinh Tế Nhà Nước
- So Sánh Mô Hình Tổng Công Ty Với Mô Hình Tập Đoàn Kinh Tế Nhà Nước
Xem toàn bộ 124 trang tài liệu này.
Về cơ bản, mô hình TĐKTNN như thế nào được quyết định dựa trên bốn yếu tố: mục tiêu, chiến lược của tập đoàn, các quy định pháp luật về tập đoàn, môi trường kinh doanh và các đặc điểm của các đơn vị thành viên. Vì thế, cơ cấu tổ chức của các TĐKT trên thế giới rất đa dạng. Do đặc trưng cơ bản của một TĐKTNN là thành phần kinh tế do Nhà nước thành lập, hoạt động theo định hướng của Nhà nước cho nên TĐKTNN ở Việt Nam đi theo mô hình công ty mẹ- công ty con.
Sơ đồ 1.2: Cơ cấu tổ chức theo mô hình công ty mẹ- con
Trong quan hệ giữa công y mẹ- công ty con, công ty mẹ có thể là chủ hoặc cổ đông góp vốn vào công ty con hoặc không có mối quan hệ tài chính nào với công ty con, còn công ty con có thể là:
- Công ty cổ phần hoặc trách nhiệm hữu hạn (TNHH) có vốn góp của công ty mẹ, có thể hoạt động trong hoặc ngoài nước.
- Công ty TNHH một thành viên do công ty mẹ làm chủ.
- Công ty liên doanh với nước ngoài, công ty mẹ nắm giữ quyền chi phối hoạt động theo quy định của pháp luật về đầu tư nước ngoài và điều lệ của công ty.
- Công ty con không có vốn góp, cổ phần của công ty mẹ nhưng tự nguyện chịu sự chi phối của công ty mẹ thông qua các hoạt động liên kết.
Ở Việt Nam, qua nghiên cứu và tham khảo kinh nghiệm từ các nước trên thế giới, Đảng và Nhà nước nhận thấy mô hình công ty mẹ- công ty con trong các TĐKTNN rất phù hợp với điều kiện và nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta.
1.1.4 Vai trò của TĐKTNN
Kể từ khi hình thành, TĐKTNN đã thể hiện rõ vai trò to lớn của mình không chỉ đối với nền kinh tế mà còn có ảnh hưởng tới văn hóa, chính trị, xã hội của một quốc gia. Như đã đề cập ở phần 1.2, các TĐKTNN có vốn rất lớn, hoạt động trong nhiều lĩnh vực nòng cốt và nắm giữ số lượng lao động lớn, vì thế vai trò và tầm ảnh hưởng của TĐKT tới một quốc gia là không hề nhỏ.
Thứ nhất, với tầm vóc của mình, các TĐKTNN đã huy động một số lượng lớn nguồn lực dồi dào của xã hội, giải quyết được thực trạng thất nghiệp, đào tạo và phát triển kỹ năng và nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ quản lý trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN thay thế những nếp nghĩ, nếp làm của đội ngũ quản lý trong cơ chế quan liêu, bao cấp trước kia, nâng cao đời sống và tay nghề cho người lao động. Qua đó tạo lợi thế cạnh tranh về nguồn nhân lực của Việt Nam với các nước khác.
Thứ hai, TĐKTNN giữ vững vai trò trụ cột trong nền kinh tế, là công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước và hội nhập kinh tế quốc tế, thúc đẩy quá trình toàn cầu hoá và khu vực hóa nền kinh tế theo đúng sự chỉ đạo của Đảng và Nhà nước.
Thứ ba, đầu tư mạnh vào công tác nghiên cứu và phát triển khoa học- công nghệ, các TĐKTNN đã góp phần thúc đẩy sự phát triển của khoa học- công nghệ của đất nước trong quá trình hiện đại hóa, công nghiệp hóa. TĐKTNN bảo vệ nền
sản xuất trong nước, cạnh tranh với các công ty đa quốc gia, TĐKT lớn của các nước khác. Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước có thể thâm nhập vào thị trường quốc tế kể cả thị trường các nước phát triển.
Thứ tư, các TĐKTNN có tiềm lực rất lớn về tài chính, liên tục mở rộng quy mô sản xuất, tận dụng được lợi thế chi phí theo quy mô từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh không chỉ của tập đoàn mà của cả quốc gia.
Thứ năm, trong giai đoạn phục hồi sau khủng hoảng, chính các TĐKTNN đã tái cơ cấu và thúc đẩy quá trình tiêu thụ, xuất nhập khẩu hàng hóa làm tăng GDP đồng thời cùng chung tay với chính phủ thực hiện các biện pháp kiềm chế lạm phát giúp nền kinh tế đất nước thoát khỏi cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008.
1.2. Tổng quan về cơ chế quản lý tài chính
1.2.1 Quan điểm về cơ chế quản lý tài chính
Khi nói về CCQLTC trước hết phải hiểu cơ chế là gì? Trong đại từ điển kinh tế thị trường có định nghĩa: “Cơ chế là tổng thể các phương pháp, các hình thức, các công cụ được vận dụng để tác động lên một hệ thống như liên kết, điều hòa, phân phối hoạt động giữa các bộ phận trong hệ thống để đạt được những mục tiêu cuối cùng1.” Có nghĩa là cơ chế là cách thức tiến hành lên một chủ thể để đạt được mục tiêu mong muốn. Với cách nhận thức như vậy, tác giả đưa ra định nghĩa về CCQLTC như sau:
CCQLTC là tổng thể những phương pháp, các hình thức, các công cụ được vận dụng tác động lên hệ thống tài chính nhằm điều hòa, phân phối, liên kết các nguồn lực một cách hiệu quả nhất giúp hoạt động của doanh nghiệp được duy trì và phát triển.
CCQLTC bao gồm bốn nội dung: cơ chế huy động vốn, cơ chế quản lý và sử dụng vốn và tài sản, cơ chế quản lý và phân phối lợi nhuận, cơ chế kiểm soát tài chính.
- Cơ chế huy động vốn bao gồm phương pháp, hình thức, công cụ huy động nguồn vốn nhằm đáp ứng nhu cầu về vốn.
1 Nguyễn Hữu Quỳnh (1998), Đại từ điển kinh tế thị trường, Nxb Viện nghiên cứu và phổ biến tri thức bách khoa, tr.281
- Cơ chế quản lý, sử dụng vốn và tài sản bao gồm các phương pháp, hình thức cân đối, phân phối và điều hòa sử dụng vốn và tài sản nhằm khai thác hiệu quả tối đa trên chi phí tối thiểu.
- Cơ chế quản lý và phân phối lợi nhuận bao gồm các phương pháp, các hình thức quản lý lợi nhuận, phân phối và sử dụng kết quả kinh doanh, hình thành và sử dụng các quỹ tập trung của doanh nghiệp.
- Cơ chế kiểm soát tài chính bao gồm các phương pháp, hình thức và công cụ nhằm kiểm soát các thông tin tài chính, kiểm soát số liệu về dự toán, quyết toán, kiểm soát nội bộ.
Nước ta có ban hành Nghị định số 199/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 của Chính phủ ban hành Quy chế quản lý tài chính của công ty nhà nước và quản lý vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp khác và thông tư 72/2005/TT-BTC hướng dẫn xây dựng Quy chế quản lý tài chính của công ty nhà nước hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con. Sau đó, vì điều kiện và bối cảnh kinh tế không còn phù hợp để áp dụng hai văn bản trên, ngày 5/2/2009 Chính phủ ban hành Nghị định số 09/2009/NĐ-CP quy định mới về việc quản lý cơ chế tài chính của công ty nhà nước và quản lý vốn nhà nước vào doanh nghiệp khác. Chứng tỏ CCQLTC đóng một vai trò quyết định tới hoạt động của một doanh nghiệp càng quan trọng hơn đối với một TĐKTNN. Có một cơ chế quản lý tài chính phù hợp với mô hình tập đoàn là nền tảng để các tập đoàn phát huy hết sức mạnh tài chính, nguồn lực, công nghệ của mình trong hoạt động SXKD và các hoạt động khác.
1.2.2 Nội dung của cơ chế quản lý tài chính
1.2.2.1 Cơ chế huy động vốn
Mục tiêu của công tác huy động và sử dụng vốn là không ngừng mở rộng quy mô vốn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của TĐKT. Khi tập đoàn huy động vốn, tùy vào nhu cầu bù đắp nguồn vốn nào mà tập đoàn quyết định huy động nguồn vốn ngắn hạn hay dài hạn. Quyết định nguồn vốn dài hạn bao gồm những quyết định xem tập đoàn nên huy động bao nhiêu vốn chủ sở hữu và bao nhiêu nợ vay, quyết định xem loại vốn chủ sở hữu nào và loại nợ vay nào tập đoàn nên sử dụng và quyết định khi nào nên huy động các nguồn vốn đó. Quyết định nguồn vốn ngắn hạn, về
nguyên tắc chỉ nên đưa ra khi tập đoàn cần đầu tư vào các tài sản lưu động. Huy động nguồn vốn ngắn hạn khi tập đoàn cần đầu tư vào tài sản lưu động thời vụ gồm có:
- Các khoản nợ phải trả người bán
- Các khoản ứng trước của người mua
- Thuế và các khoản phải nộp cho nhà nước
- Các khoản phải trả công nhân viên
- Các khoản phải trả khác
- Vay ngắn hạn từ ngân hàng
Hiện nay, có rất nhiều kênh huy động vốn cho các TĐKTNN cũng như là các doanh nghiệp khác, có thể kể đến những hình thức huy động chủ yếu sau:
a. Thị trường chứng khoán
Trên thế giới, kênh huy động này đã phát triển từ rất lâu nhưng tại Việt nam mấy năm gần đây mới được các TĐKTNN sử dụng nhiều. Huy động vốn qua TTCK có ưu điểm là huy động nhanh chóng vốn nhàn dỗi từ các nhà đầu tư. Tuy nhiên, hình thức huy động này chiếm một chi phí khá cao, thời gian tích lũy vốn lâu và có nhiều rủi ro. Huy động vốn qua TTCK có thể qua các loại chứng khoán sau:
- Thương phiếu: Thương phiếu ra đời trên cơ sở quan hệ mua bán chịu giữa các chủ thể trong nền kinh tế. Trong quá trình phát triển, thương phiếu dần dần biến đổi tính chất, từ một giấy chứng nhận nợ thông thường đã trở thành một công cụ lưu thông tín dụng có thể thực hiện được chức năng phương tiện lưu thông và phương tiện thanh toán thay thế cho tiền mặt trong nền kinh tế. Thương phiếu tồn tại dưới 2 hình thức là hối phiếu và lệnh phiếu:
Hối phiếu là chứng chỉ có giá do người bán chịu lập, là một mệnh lệnh đòi tiền vô điều kiện, yêu cầu người mua khi nhìn thấy hối phiếu chịu trả một số tiền xác định vào một thời gian và ở một địa điểm nhất định cho người thụ hưởng.
Lệnh phiếu là chứng chỉ có giá do người mua chịu lập, cam kết trả một số tiền xác định trong một thời gian và ở một địa điểm nhất định cho người thụ hưởng.
- Trái phiếu công ty: Trái phiếu công ty là công cụ nợ dài hạn do công ty phát hành nhằm huy động vốn dài hạn. Trên trái phiếu bao giờ cũng có ghi một số tiền nhất định, gọi là mệnh giá của trái phiếu. Mệnh giá nói chung (face or par value) tức là giá trị được công bố của tài sản. Trong trường hợp trái phiếu, mệnh giá thường được công bố là 1.000USD hoặc 100.000 đồng như ở Việt Nam. Ngoài việc công bố mệnh giá, người phát hành trái phiếu còn công bố lãi suất của trái phiếu. Lãi suất của trái phiếu (coupon rate) tức là lãi suất mà người mua trái phiếu được hưởng, nó bằng lãi được hưởng chia cho mệnh giá của trái phiếu. Thông qua phát hành trái phiếu, doanh nghiệp có thể vay được từ thị trường một khoản vốn khá lớn. Nhờ đó tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp sẽ cãi thiện đáng kể, tập đoàn sẽ có thêm tiền để đầu tư, mở rộng hoạt động sản suất kinh doanh. Có rất nhiều loại trái phiếu, được phân loại theo nhiều căn cứ:
Căn cứ vào thứ tự ưu tiên thanh toán: Trái phiếu cao cấp và trái phiếu thứ cấp
Căn cứ theo lãi suất coupon: lãi suất cố định, lãi suất thay đổi, lãi suất bằng 0.
Liên quan đến việc hoàn trả gốc: trái phiếu có thể thu hồi trước hạn, trái phiế có thể bán trước hạn cho nhà phát hành, trái phiếu chuyển đổi.
Căn cứ theo tính chất đảm bảo: Bond (loại trái phiếu có tài sản đảm bảo) và Denbenture (loại trái phiếu không có tài sản đảm bảo)
- Cổ phiếu: Khác với trái phiếu, cổ phiếu là chứng nhận góp vốn vào công ty cổ phần. Nó là chứng khoán vốn, trong khi trái phiếu là chứng khoán nợ. Theo định nghĩa của pháp luật doanh nghiệp thì: Cổ phiếu là chứng chỉ do công ty cổ phần phát hành hoặc bút toán ghi sổ xác nhận quyền sở hữu một hoặc một số cổ phần của công ty đó2. Cổ phiếu có thể ghi tên hoặc không ghi tên. Cổ phiếu còn được
chia thành cổ phiếu ưu đãi và cổ phiếu phổ thông hay còn gọi là cổ phiếu thường. Cổ phiếu thường được xem như là loại cổ phiếu có thu nhập không cố định. Cổ
2 Quốc hội khoá X,
Luật doanh nghiệp 2005, điều 85
phiếu ưu đãi bao gồm: Cổ phiếu ưu đãi biểu quyết, Cổ phiếu ưu đãi cổ tức, Cổ phiếu ưu đãi hoàn lại trong đó có cổ phiếu ưu đãi cổ tức có thu nhập cố định.
Phát hành cổ phiếu ưu đãi cổ tức : Một TĐKTNN có thể chọn cách phát hành cổ phiếu ưu đãi cổ tức mới để huy động vốn. Những người mua các cổ phiếu này được hưởng mức cổ tức cố định hàng năm và sẽ được điều chỉnh nếu mức chi trả cổ phiếu phổ thông cao hơn. Họ có quyền ưu tiên đặc biệt khi tập đoàn gặp phải khó khăn về tài chính. Nếu lợi nhuận bị hạn chế thì chủ sở hữu cổ phiếu ưu đãi cổ tức sẽ được nhận cổ tức sau trái chủ nhưng trước chủ sở hữu bất kỳ loại cổ phiếu thường nào.
Chào bán cổ phiếu phổ thông: Nếu một TĐKTNN đang ở trong tình trạng tài chính lành mạnh, nó có thể huy động vốn bằng cách phát hành cổ phiếu phổ thông của các công ty thành viên hay của chính tập đoàn. Thông thường, các ngân hàng đầu tư giúp các tập đoàn phát hành cổ phiếu, đồng ý mua bất kỳ cổ phần mới nào được phát hành với mức giá đặt trước nếu công chúng từ chối mua cổ phiếu đó với mức giá tối thiểu nhất định. Việc các cổ đông phổ thông có được nhận cổ tức sau khi kết thúc một niên độ kế toán hay không còn phụ thuộc vào chính sách cổ tức của tập đoàn và quyết định của hội đồng quản trị. Mặc dù người giữ cổ phiếu phổ thông có quyền riêng bầu chọn hội đồng quản trị tập đoàn, nhưng họ lại chưa được nhận cổ tức khi đến kỳ phân chia lợi nhuận nếu tập đoàn chưa thanh toán tiền lãi cho các trái chủ và cổ tức ưu đãi cho những người nắm giữ cổ phiếu ưu đãi cổ tức.
Cơ hội huy động vốn bằng cổ phiếu trên thị trường niêm yết phụ thuộc vào quy mô vốn hóa của thị trường, trong đó tốc độ thực hiện cổ phần hóa doanh nghiệp và niêm yết cổ phiếu trên thị trường đóng vai trò quyết định. Quy mô vốn hóa và số lượng công ty niêm yết trên thị trường thay đổi hàng ngày theo hướng càng tăng đã mở ra cơ hội rất lớn cho các nhà đầu tư nói chung và cho hoạt động của doanh nghiệp nói riêng. Tuy nhiên, số lượng tài khoản giao dịch và khối lượng vốn các nhà đầu tư trong và ngoài nước đổ vào thị trường cổ phiếu cũng tăng theo khiến cho việc tìm kiếm cơ hội huy động vốn trở thành việc cạnh tranh gay gắt.