Tâm lý khách du lịch - Trường ĐH Công nghiệp Quảng Ninh - 1


BỘ CÔNG THƯƠNG

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP QUẢNG NINH


Th.S. Trần Thị Thanh Hương


GIÁO TRÌNH

TÂM LÝ KHÁCH DU LỊCH

DÙNG CHO TRÌNH ĐỘ ĐẠI HỌC


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 77 trang tài liệu này.

QUẢNG NINH - 2020

TUYÊN BỐ BẢN QUYỀN

Tâm lý khách du lịch - Trường ĐH Công nghiệp Quảng Ninh - 1

Tài liệu này thuộc loại sách giáo trình nên các nguồn thông tin có thể được phép dùng nguyên bản hoặc trích dùng cho các mục đích về đào tạo và tham khảo.

Mọi mục đích khác mang tính lệch lạc hoặc sử dụng với mục đích kinh doanh thiếu lành mạnh sẽ bị nghiêm cấm.

LỜI MỞ ĐẦU


Thế giới tâm lí của con người vô càng đa dạng và diệu kỳ, việc nhận thức được các hiện tượng tâm lí tình thần của con người có một ý nghĩa rất quan trọng trong cuộc sống. Cùng với dòng lịch sử của nhân loại, từ thủa xa xưa cho đến nay loài người luôn quan tâm nghiên cứu về thế giới tâm lí của mình. Từ những tư tưởng đầu tiên sơ khai về các hiện tượng tâm lí, tâm lí học đã hình thành phát triển không ngừng và ngày càng giữ một vị trí quan trọng trong nhóm các khoa học về con người. Đây là một khoa học có ý nghĩa to lớn trong việc phát huy nhân tố con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xứ hội chung trong hoạt động du lịch nói riêng.

Tâm lý du khách là nội bộ phận của Tâm lý học du lịch. Đây là một môn học chuyên ngành trong chương trình đào tạo chuyên ngành QTKD du lịch khách sạn.

Đáp ứng nhu cầu giảng dạy môn Tâm lý khách du lịch, giáo trình Tâm lý khách du lịch được biên soạn nhằm cung cắp các kiến thức cơ bản về đặc điểm tâm lý của khách du lịch nói chung và đặc điểm tâm lý của các nhóm du khách được coi là nguồn khách quan trọng của thị trường du lịch Việt Nam.

Cấu trúc của giáo trình gồm các chương: Chương 1: Tâm lý là một khoa học

Chương 2: Đời sống tình cảm

Chương 3: Một số vấn đề cơ bản của Tâm lý khách du lịch và tâm lý xã hội Chương 4: Những đặc điểm tâm lý chung của khách du lịch

Chương 5: Những đặc điểm của khách theo quốc gia dân tộc và nghề nghiệp

Tâm lý khách du lịch với nhiều sắc thái và yếu tố ảnh hưởng, văn hóa các dân tộc, các quốc gia hết sức phong phú, đa dạng. Do vậy, mặc dù tác giả đã nỗ lực hết sức trong quá trình biên soạn, song giáo trình không tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Tác giả rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến từ phía các đồng nghiệp và bạn đọc để lần chỉnh lý tiếp theo giáo trình được hoàn thiện hơn


Quảng Ninh, ngày tháng năm

Tham gia biên soạn


Chủ biên: Trần Thị Thanh Hương

MỤC LỤC

CHƯƠNG 1: TÂM LÍ LÀ MỘT KHOA HỌC


Mục tiêu:

- Trang bị cho học sinh những kiến thức cơ bản về khái niệm, nguồn gốc ra đời, quá trình hình thành phát triển tâm lí học.

- Giúp học có được những hiểu biết về bản chất tâm lí người.

- Trang bị cho học sinh những kiến thức cơ bản về các phương pháp nghiên cứu tâm lí và vận dụng các phương pháp này vào nghiên cứu tâm lí khách du lịch.

Nội dung chương:


1. Đối tượng và nhiệm vụ của tâm lí học

1.1. Tâm lý học là gì?

Trong cuộc sống hàng ngày, nhiều người dùng cụm từ tâm líđể nói về sự hiểu biết trong giao tiếp, hay là sự hiểu biết về lòng người, giống như khi họ nói: Ông X tâm lí thật, tiếp đãi ai cũng giỏi,.... Có người lại dùng từ tâm lí để nói đến tính tình, tình cảm, trí thông minh,... của con người. Đây là cách hiểu tâm lítheo nghĩa thông thường. Đời sống tâm lí của con người rất phong phú, nó bao hàm nhiều hiện tượng tâm lí từ đơn giản đến phức tạp như cảm giác, tri giác, trí nhớ, tư duy cho đến nhu cầu, tình cảm, ý chí, năng lực, lý tưởng,...

Trong tiếng Việt thuật ngữ tâm lí, tâm hồnđã có từ lâu, từ điển tiếng Việt (1988) định nghĩa: tâm lílà ý nghĩ, tình cảm,... làm thành đời sống nội tâm, thế giới bên trong của con người.

Theo ngôn ngữ đời thường chữ tâmthường có nghĩa là lòng người, thiên về mặt tình cảm, nó hay được dùng với những cụm từ như nhân tâm, tâm hồn, tâm địa”,... nhìn chung thường để diễn tả tư tưởng, tinh thần ý thức, ý chí,... của con người.

Trong lịch sử xa xưa của nhân loại, trong các ngôn ngữ phổ biến người ta cũng đều nói đến tâm lívới ý nghĩa là linh hồn, tinh thần, như trong tiếng Latinh tâm lí họcPsychologietrong đó Plychelinh hồn, tinh thầnlogoslà học thuyết, khoa học- Psychologiechính là khoa học về tâm hồn.

Nói một cách khái quát nhất: tâm lí học là khoa học về các hiện tượng tâm lí. Trong đó: tâm lí là tất cả những hiện tượng tinh thần xảy ra trong đầu óc con người, gắn liền và chi phối mọi hoạt động của con người. Các hiện tượng tâm lí đóng vai trò quan trọng đặc biệt trong đời sống con người, trong mọi hoạt động của cá nhân, trong quan hệ giữa con người với con người trong xã hội loài người.

* Đối tượng

Mỗi một khoa học nghiên cứu một dạng vận động của thế giới. Khoa học tự nhiên phân tích các dạng vận động của thế giới tự nhiên, khoa học xã hội phân tích các dạng vận động của xã hội. Các khoa học nghiên cứu các dạng vận động chuyển tiếp trung gian từ dạng vận động này sang dạng vận động kia được gọi là các khoa học trung gian, chẳng hạn: lí sinh học, hoá sinh học, tâm lí học... Trong đó tâm lí học nghiên cứu dạng vận động chuyển tiếp từ vận động sinh vật sang vận động xã hội, từ thế giới khách quan (bao gồm cả tự nhiên và xã hội) vào não con người sinh ra hiện tượng tâm lí với tư cách là một hiện tượng tinh thần.

Như vậy, đối tượng của tâm lí học là các hiện tượng tâm lí với tư cách là một hiện tượng tinh thần do thế giới khách quan tác động vào não người sinh ra, gọi chung là các hoạt động tâm lí. Tâm lí học nghiên cứu sự hình thành, vận hành và phát triển của hoạt động tâm lí.

* Nhiệm vụ

Nhiệm vụ cơ bản của tâm lí học là nghiên cứu bản chất hoạt động của tâm lí, các quy luật nảy sinh và phát triển tâm lí, cơ chế, diễn biến và thể hiện tâm lí, quy luật về mối quan hệ giữa các hiện tượng tâm lí, cụ thể nó nghiên cứu:

- Những yếu tố khách quan, chủ quan nào đã tạo ra tâm lí người.

- Cơ chế hình thành, biểu hiện của hoạt động tâm lí.

- Tâm lí của con người hoạt động như thế nào?

- Chức năng, vai trò của tâm lí đối với hoạt động của con người.

Từ những thành tựu nghiên cứu tâm lí học đưa ra những giải pháp hữu hiệu nhất cho việc hình thành, phát triển tâm lí. Trên cơ sở nghiên cứu những quy luật của các hoạt động tâm lí, tâm lí học còn vạch ra phương pháp hình thành các hoạt động tâm lí, đề cập đến chức năng vai trò của tâm lí đối với hoạt động của con người. Do đó tâm lí học còn có nhiệm vụ thực tiễn góp phần vào việc sử dụng tâm lí trong nhân tố con người có hiệu quả nhất, nhiệm vụ thực tiễn này có thể vận dụng trong nhiều lĩnh vực hoạt động của xã hội loài người trong đó có hoạt động du lịch.

1.2. Vài nét về sự hình thành và phát triển của tâm lí học

Thuật ngữ Tâm lý học được dùng lần đầu tiên trong "Yucologia hoc est de hominis perfectione, anima, ortu", do nhà triết học kinh điển người Đức Rudlof Goeckel (La tinh hóa Rudolph Goclenius (1547-1628)) viết ra, được phát hành tại Marburg vào năm 1590. Tuy nhiên, thuật ngữ này đã được nhà nhân văn học người Croatia là Marko Marulić (1450-1524) dùng trong thực tế từ sáu thập kỷ trước đó trong tiêu đề của chuyên luận La tinh của ông "Psichiologia de ratione animae humanae". Mặc dù chính chuyên luận không được bảo tồn, tiêu đề của nó xuất hiện trong danh sách các công trình của Marulic được người đồng nghiệp trẻ hơn của ông là Franjo Bozicevic-Natalis biên dịch trong "Vita Marci Maruli Spalatensis" của mình (Krstić, 1964). Điều này tất nhiên có thể không phải là việc sử dụng đầu tiên, nhưng nó là việc sử dụng được ghi lại trên tài liệu sớm nhất hiện tại biết được.

Thuật ngữ đã bắt đầu được dùng rộng rãi kể từ khi nhà triết học duy tâm người Đức Christian Wolff (1679-1754) dùng nó trong Psychologia empirica and Psychologia rationalis của ông (1732-1734). Sự phân biệt giữa tâm lý học kinh nghiệm (empirical) và lý trí (rational) này được đề cập trong Encyclodedie của Diderot và được Maine de Biran phổ cập tại Pháp.

Nguồn gốc của từ tâm lý học (psychology) là psyche (tâm lý) rất gần giống với "soul" (linh hồn) trong tiếng Hy Lạp, và tâm lý học trước đây đã được coi như một nghiên cứu về linh hồn (với ý nghĩa tôn giáo của thuật ngữ này), trong thời kỳ Thiên Chúa Giáo. Tâm lý học được xem là một ngành y khoa được Thomas Willis nhắc đến khi nói về tâm lý học (trong Doctrine of the Soul) với các thuật ngữ về chức năng não, một phần của chuyên luận giải phẫu 1862 của ông là "De Anima Brutorum" ("Hai thuyết trình về Linh hồn của Brutes").

Người sáng lập của ngành tâm lý học là Wilhelm Wundt. Vào năm 1879 ông thiết lập phòng thí nghiệm tâm lý học đầu tiên ở Leipzig, Đức. Ông tách Tâm lý học ra khỏi các khoa học khác, từ đây tâm lý học trở thành khoa học độc lập. Ông là người theo chủ nghĩa cấu trúc ghestal, quan tâm đến những gì tạo thành ý thức và mong muốn phân loại não ra thành những mảng nhỏ khác nhau để nghiên cứu từng phần riêng biệt. Ông sử dụng phương pháp xem xét nội tâm, yêu cầu một người tự nhìn vào nội tâm và ý thức của bản thân để nghiên cứu. Những người theo chủ nghĩa cấu trúc cũng tin rằng một người phải được huấn luyện để có thể tự xem xét nội tâm của mình.

Những người đóng góp cho tâm lý học trong những ngày đầu tiên bao gồm Hermann Ebbinghaus (người tiên phong nghiên cứu trí nhớ), Ivan Petrovich Pavlov

(người Nga đã phát hiện ra quá trình học hỏi thông qua những điều kiện kinh điển-phản xạ có điều kiện, là khái niệm quan trọng trong nghiên cứu tâm lý cấp cao con người - ("sinh lý thần kinh cấp cao") và Sigmund Freud. Freud là người Áo đã có rất nhiều ảnh hưởng đến môn tâm lý học, mặc dù những ảnh hưởng này thiên về sinh vật hóa hơn, đóng góp cho ngành khoa học tâm lý. Thuyết của Freud cho rằng cấu trúc hành vi người được thúc đẩy bởi các thành tố cơ bản là ý thức-tiềm thức-vô thức, dựa trên cơ chế "thỏa mãn và dồn nén".

Ngày nay, vị trí tâm lý học có vai trò quyết định đến sức khỏe con người. Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đã định nghĩa sức khỏe là sự tương tác của mối liên hệ giữa Xã hội-Thể chất-Tinh thần con người. Năm 1972 Leonchiev đã làm sáng tỏ khái niệm về nghiên cứu tâm lý con người dựa trên hay hướng đến hoạt động có đối tượng. Xây dựng liệu pháp tâm lý trên hoạt động tích cực của cá nhân. Yếu tố tiền đề quyết định đến hành vi và năng lực cá nhân đó phương tiện trong cấu trúc hoạt động có đối tượng của cá nhân trong môi trường nhất định. Tổng hòa các mối quan hệ xã hội.

2. Bản chất, chức năng, phân loại các hiện tượng tâm lí

2.1. Bản chất hiện tượng tâm lí người

Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: tâm lí người là sự phản ánh hiện thực khách quan vào não người thông qua chủ thể, tâm lí người có bản chất xã hội lịch

2.1.1. Tâm lí người là sự phản ánh hiện thực khách quan vào não người thông qua chủ thể

- Tâm lí người không tự nhiên sinh ra, cũng không phải do não tiết ra như gan tiết ra mật, tâm lí người là sự phản ánh hiện thực khách quan vào não con người thông qua “lăng kính chủ quan”.

- Thế giới khách quan tồn tại bằng các thuộc tính không gian, thời gian và luôn vận động. Phản ánh là thuộc tính chung của mọi sự vật hiện tượng đang vận động. Nói một cách chung nhất: phản ánh là quá trình tác động qua lại giữa hệ thống này và hệ thống khác để lại dấu vết (hình ảnh) ở cả hệ thống tác động và hệ thống chịu tác động, chẳng hạn:

+ Viên phấn được dùng để viết lên bảng đen để lại vết phấn trên bảng và ngược lại bảng đen làm mòn (để lại vết), trên viên phấn (phản ánh cơ học).

+ Hệ thống khí ô-xi tác động qua lại với hệ thống khí hidrô, đó là phản ánh (phản ánh hoá học) để lại một vết chung của hai hệ thống là nước (H2O) (H2 + O2 -> H2O)

+ Cây hoa hướng dương luôn vươn về hướng mặt trời (đây là phản ánh sinh

vật)...

Phản ánh diễn ra từ đơn giản đến phức tạp và có sự chuyển hoá lẫn nhau: từ phản

ánh cơ, vật lý, hoá đến phản ánh sinh vật và phản ánh xã hội, trong đó có phản ánh tâm lí.

- Phản ánh tâm lí là một loại phản ánh đặc biệt:

+ Đó là sự tác động của hiện thực khách quan vào con người, vào hệ thần kinh, vào bộ não con người- tổ chức cao nhất của vật chất. Chỉ có hệ thần kinh và bộ não người mới có khả năng nhận tác động của hiện thực khách quan, tạo ra trên não hình ảnh tinh thần (tâm lí) chứa đựng trong vết vật chất, đó là quá trình sinh lí, sinh hoá ở trong hệ thần kinh và não bộ. Các Mác nói, tinh thần, tư tưởng, tâm lí... chẳng qua là vật chất được chuyển vào trong đầu óc, biến đổi trong đó mà có.

+ Phản ánh tâm lí tạo ra “hình ảnh tâm lí” (bản “sao chép”, “bản chép”) về thế giới. Hình ảnh tâm lí là kết quả của quá trình phản ánh thế giới khách quan vào não. Song hình ảnh tâm lí khác với chất so với hình ảnh cơ, vật lý, sinh vật ở chỗ:

* Hình ảnh tâm lí mang tính sinh động, sáng tạo. Thí dụ: hình ảnh tâm lí về một cuốn sách trong đầu một con người biết chữ khác xa về chất với hình ảnh vật lý có tính chất “chết cứng”, hình ảnh vật chất của chính cuốn sách đó trong gương.

* Hình ảnh tâm lí mang tính chủ thể, mang đậm màu sắc cá nhân (hay nhóm người) mang hình ảnh tâm lí đó, hay nói cách khác hình ảnh tâm lí là hình ảnh chủ quan về hiện thực khách quan. Tính chủ thể của hình ảnh tâm lí thể hiện ở chỗ: mỗi chủ thể trong khi tạo ra hình ảnh tâm lí về thế giới đã đưa vốn hiểu biết, vốn kinh nghiệm, cái riêng của mình (về nhu cầu) xu hướng, tính khí, năng lực, tình cảm... vào trong hình ảnh đó làm cho nó mang đậm màu sắc chủ quan. Hay nói cách khác đi, con người phản ánh thế giới bằng hình ảnh tâm lí thông qua “lăng kính chủ quan” của mình.

* Tính chủ thể trong phản ánh tâm lí thể hiện ở chỗ: Cùng nhận sự tác động của thế giới về cùng một hiện thực khách quan nhưng những chủ thể khác nhau cho ta những hình ảnh tâm lí với những mức độ, sắc thái khác nhau. Mặt khác có khi cùng một hiện thực khách quan tác động đến một chủ thể duy nhất nhưng vào thời điểm khác nhau, ở những hoàn cảnh khác nhau, với trạng thái cơ thể, trạng thái tinh thần khác nhau, có thể cho ta thấy mức độ biểu hiện và các sắc thái tâm lí khác nhau ở chủ thể ấy.

+ Chính chủ thể mang hình ảnh tâm lí là người cảm nhận, cảm nghiệm và thể hiện nó rõ nhất. Cuối cùng thông qua các mức độ và sắc thái tâm lí khác nhau mà mỗi chủ thể có thái độ, hành vi khác nhau đối với hiện thực.

Do đâu mà tâm lí người này khác với tâm lí người kia.

Điều đó do nhiều yếu tố chi phối, trước hết, do mỗi con người có những đặc điểm riêng về cơ thể, giác quan, hệ thần kinh và não bộ. Mỗi người có hoàn cảnh sống khác nhau, điều kiện giáo dục không giống nhau và đặc biệt là mỗi cá nhân thể hiện mức độ tích cực hoạt động, tính cực giao lưu khác nhau trong cuộc sống, vì thế tâm lí người này khác với tâm lí người kia.

Từ luận điểm trên chúng ta rút ra một số kết luận thực tiễn:

- Tâm lí người có nguồn gốc là thế giới khách quan, vì thế khi nghiên cứu, cũng như khi hình thành, cải tạo tâm lí người phải nghiên cứu hoàn cảnh trong đó con người sống và hoạt động.

- Tâm lí người mang tính chủ thể, vì thế trong các lĩnh vực hoạt động, đặc biệt trong giao tiếp ứng xử phải chú trọng nguyên tắc sát đối tượng (chú ý đến cái riêng trong tâm lí mỗi người).

- Tâm lí người là sản phẩm của hoạt động và giao tiếp, vì thế phải tổ chức hoạt động và giao tiếp để nghiên cứu sự hình thành và phát triển của tâm lí con người.

2.1.2. Bản chất xã hội của tâm lí người

Tâm lí người là sự phản ánh hiện thực khách quan, là chức năng của não, là kinh nghiệm xã hội lịch sử biến thành cái riêng của mỗi người. Tâm lí con người khác xa với tâm lí của các động vật cao cấp ở chỗ: tâm lí người có bản chất xã hội và mang tính lịch sử.

Bản chất xã hội và tính lịch sử của tâm lí người thể hiện như sau:

- Tâm lí người có nguồn gốc là thế giới khách quan, mà thế giới khách quan bao gồm cả mặt tự nhiên và xã hội, trong đó nguồn gốc xã hội là cái quyết định. Ngay cả phần tự nhiên trong thế giới cũng đã được xã hội hoá. Phần xã hội của thế giới quyết định tâm lí người thể hiện ở các quan hệ kinh tế xã hội, các mối quan hệ con người-con người từ quan hệ gia đình, làng xóm, quê hương khối phố cho đến các quan hệ nhóm, quan hệ cộng đồng... Các mối quan hệ trên quyết định bản chất con người (theo Các Mác, bản chất con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội) vì vậy nó quyết định tâm lí người. Trên thực tế, con người thoát li khỏi các mối quan hệ xã hội, quan hệ người-

Ngày đăng: 02/11/2025

Gửi bình luận


Đồng ý Chính sách bảo mật*