Kinh Nghiệm Nâng Cao Hiệu Quả Tín Dụng Của Các Ngân Hàng Thương Mại Trong Và Ngoài Nước


định đúng đắn và cần thiết có liên quan đến hoạt động tín dụng, theo dõi và quản lý tài khoản cho vay. Thông tin tín dụng có thể thu được từ những nguồn sẵn có ở ngân hàng qua hồ sơ của khách hàng, qua các báo cáo định kỳ khách hàng gửi cho ngân hàng theo quy định (như bảng tổng kết tài sản, báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, báo cáo tài chính, báo cáo tín dụng) và từ hệ thống quản lý thông tin (CIC) của NHNN, từ các cơ quan chuyên quản lý thông tin tín dụng ở trong và ngoài nước, từ các nguồn thông tin khác như: Phỏng vấn khách hàng, điều tra tại nơi hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng, điều tra thông qua các khách hàng của doanh nghiệp, thu thập thông tin từ các cơ quan khác: Thuế, báo chí, cơ quan đảng, chính quyền địa phương, cơ quan chủ quản…. Số lượng, chất lượng của thông tin thu nhận được có liên quan đến mức độ chính xác trong việc phân tích, nhận định tình hình thị trường, khách hàng…để đưa ra những quyết định phù hợp. Vì vậy, thông tin càng chính xác và toàn diện thì khả năng phòng ngừa rủi ro trong hoạt động kinh doanh càng lớn, khả năng mang lại hiệu quả tín dụng càng cao.

- Kiểm tra, kiểm soát nội bộ: Kinh doanh tiền tệ là lĩnh vực chịu nhiều rủi ro đối với hệ thống ngân hàng, do đó mỗi ngân hàng thương mại đều phải xây dựng bộ phận kiểm tra kiểm soát nội bộ. Đây cũng là biện pháp giúp cho Ban lãnh đạo phát hiện kịp thời những sai sót và nắm bắt tình hình hình kinh doanh của đơn vị nhằm duy trì có hiệu quả các hoạt động kinh doanh đang được xúc tiến, phù hợp với các chính sách, đáp ứng được các mục tiêu đã định. Công tác kiểm tra kiểm soát nhằm phát hiện và loại trừ những cán bộ mất phẩm chất, tiêu cực, tham ô, tham nhũng gây thất thoát tài sản làm mất uy tín của ngân hàng.

Hoạt động tín dụng chứa nhiều những rủi ro tiềm ẩn mà nếu chúng ta không kiểm tra kiểm soát thường xuyên thì sẽ không ngăn chặn và phát hiện những hành vi vi phạm pháp luật có ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng cũng như bảo vệ được tài sản, đội ngũ cán bộ, uy tín của ngân hàng. Vì vậy, việc bố


trí những cán bộ có năng lực, trình độ và trách nhiệm cao, phẩm chất tốt, trung thực, khách quan thực hiện công tác kiểm tra thanh tra giám sát là vấn đề không một ngân hàng nào được coi nhẹ.

- Công nghệ ngân hàng: Ngày nay, để bảo mật thông tin khách hàng và đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thị trường tài chính, các ngân hàng đua nhau trong việc đầu tư các trang thiết bị hiện đại nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của khách hàng.

Việc đầu tư trang thiết bị tiên tiến sẽ giúp cho Ngân hàng phục vụ kịp thời yêu cầu của khách hàng về các mặt dịch vụ, phục vụ (nhận tiền gửi, cho vay, thu nợ…) với chi phí cả hai bên đều chấp nhận được. Đồng thời, giúp cho các cấp quản lý Ngân hàng kịp thời nắm bắt tình hình hoạt động tín dụng, để điều chỉnh kịp thời cho phù hợp với tình hình thực tế, nhằm thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của khách hàng.

Như vậy, trang thiết bị cũng là một nhân tố không thể thiếu để không

ngừng cải tiến chất lượng tín dụng nhằm nâng cao hiệu quả tín dụng.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 142 trang tài liệu này.

- Uy tín của NHTM liên quan đến lãi suất huy động và thu hút khách hàng mở tài khoản tiền gửi. Đến lượt mình, huy động nguồn vốn thể hiện hiệu quả tín dụng của NHTM về phương diện chi phí. Nếu khách hàng lớn mở tài khoản thanh toán tại NHTM, ngân hàng sẽ huy động được nguồn vốn giá rẻ. Ngân hàng có uy tín cũng dễ huy động tiền gửi của dân cư với lãi suất thấp hơn ngân hàng không có uy tín.

- Danh mục khách hàng truyền thống của NHTM cũng phản ánh phần nào hiệu quả hoạt động tín dụng của ngân hàng. Bởi vì hiệu quả tín dụng của NHTM tùy thuộc vào khả năng hoàn trả vốn tín dụng và lãi đúng hạn của khách hàng. Nếu NHTM có danh mục khách hàng mạnh, làm ăn đàng hoàng, có nghĩa hiệu quả hoạt động tín dụng của ngân hàng sẽ cao. Ngoài ra, uy tín và sự tin tưởng của khách hàng đối với ngân hàng cũng phản ánh chất lượng và độ hấp dẫn của NHTM.

Hiệu quả tín dụng của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Quảng Nam - 6


- Hiệu quả tín dụng của NHTM còn chịu ảnh hưởng bởi chất lượng quản lý rủi ro tín dụng. Theo thông lệ quốc tế, tỷ lệ rủi ro hợp lí nhất trong hoạt động tín dụng cho phép là 1% trên tổng dư nợ bình quân hàng năm. Ở Việt Nam, theo quy định của NHNN, tỷ lệ rủi ro tín dụng cho phép là 5%. Những ngân hàng có tỷ lệ rủi ro hợp lý thường là những NH có trình độ quản lý rủi ro tín dụng tốt.

- Chỉ tiêu rủi ro lãi suất của ngân hàng thương mại:

Theo Peter S.Rose cho rằng: “tác động của sự thay đổi lãi suất đến lợi nhuận của ngân hàng được gọi là rủi ro lãi suất”. Rủi ro lãi suất là một trong những thách thức lớn nhất của NHTM trong kinh doanh tín dụng.

Trên thế giới, hầu hết các NHTM đều chú trọng đến việc nâng cao công cụ quản lý rủi ro lãi suất nhằm hạn chế đến mức tối đa ảnh hưởng xấu của biến động lãi suất đến hiệu quả tín dụng. Bản thân lãi suất là giá cả của vốn tín dụng, là một phạm trù kinh tế tổng hợp mang tính “nhạy cảm rất cao” được hình thành một cách khách quan do cung cầu vốn trên thị trường. Vì vậy, công cụ quản lý rủi ro lãi suất phải được tập trung khai thác trên nhiều khía cạnh khác nhau nhằm đưa ra chính sách lãi suất phù hợp. Thông thường để quản lý rủi ro lãi suất, NHTM tập trung vào các chính sách chủ yếu sau đây:

Thứ nhất, định giá lãi suất tiền gửi: Lãi suất tiền gửi được xây dựng nhằm để thu hút tiền gửi khách hàng, với mức chi phí hợp lý và đồng thời phải tính đến yếu tố lạm phát. Thông thường các nhà quản trị ngân hàng theo đuổi chính sách trượt giá, bảo toàn được vốn cho người gửi tiền. Tuy nhiên, nếu xây dựng lãi suất tiền gửi quá cao sẽ làm gia tăng chi phí, vì thế NHTM thường quy định lãi suất tiền gửi phải nhỏ hơn lãi suất tiền vay.

Thứ hai, định giá lãi suất cho vay: Trong hầu hết các thị trường tiền tệ, việc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp luôn diễn ra hết sức gay gắt, vì vậy việc định giá lãi suất cho vay được coi như một trong những chiến lược kinh doanh quyết định hiệu quả hoạt động của ngân hàng và cần phải được tính toán trên nhiều góc độ khác nhau.


Thông thường, lãi suất cho vay (LSCV) được ấn định trên cơ sở phải bù đắp được chi phí trả lãi tiền gửi, chi phí hoạt động ngân hàng, đảm bảo nộp thuế cho NSNN và ngân hàng kinh doanh phải có lãi theo công thức:

LSCV = LS tiền gửi + CP hoạt động NH + DPRR tín dụng + Thuế + LN của NH Đồng thời, lãi suất cho vay được ấn định trên cơ sở tham khảo lãi suất

trên thị trường liên NH và được điều chỉnh theo biên độ nhất định theo biến động trên thị trường.

LSCV = LS thị trường liên NH + biên độ điều chỉnh LS

Lãi suất cho vay cũng được ấn định trên cơ sở tham khảo lãi suất cơ bản: LSCV = LS cơ bản + Tỷ lệ điều chỉnh của NH

Tỷ lệ điều chỉnh của NHTM bao gồm: tỷ lệ điều chỉnh rủi ro tín dụng, tỷ lệ điều chỉnh rủi ro thời hạn, tỷ lệ này được tính bằng phương pháp thống kê trong thời gian vừa qua.

Lãi suất cho vay còn được ấn định trên cơ sở lãi suất cho vay hòa vốn. Hầu hết các NHTM khi quản lý rủi ro lãi suất đều dựa trên hai mục tiêu là khả năng tăng trưởng và khả năng sinh lời, nếu trả lãi suất tiền gửi cao hơn thì NHTM sẽ huy động được nhiều hơn nhưng điều này sẽ dẫn đến lợi nhuận ngân hàng sẽ sụt giảm. Lãi suất cho vay hòa vốn là mức lãi suất cho vay tối thiểu mà ở lãi suất này thu nhập từ lãi vay sẽ bù đắp được chi phí trả lãi tiền gửi của các NHTM. Lãi suất cho vay hòa vốn được tính theo công thức sau:

CP trả lãi + CP phi lãi

Lãi suất cho vay hòa vốn =

Tổng tài sản có sinh lời

Khi định giá thông thường, lãi suất cho vay phải cao hơn lãi suất cho

vay hòa vốn thì NHTM mới bù đắp được chi phí và đảm bảo có lãi

Thứ ba, thu nhập lãi cận biên (net interest margin-NIM)

TN từ các khoản cho vay - chi phí trả

Tỷ lệ thu nhập lãi cận

=

biên (NIM)

lãi cho tiền gửi và tiền vay


Tổng tài sản sinh lời

TN từ lãi = TN từ lãi vay - CP trả lãi tiền gửi và tiền vay


Đây là chỉ tiêu quan trọng trong quản lý rủi ro lãi suất, phản ánh tỷ lệ thu nhập từ lãi mang lại so với tổng tài sản sinh lời của một NHTM. Nếu NH chấp nhận tỷ lệ thu nhập lãi cận biên cần so sánh với chi phí hoạt động NH (tức là chi phí phi lãi) để có thể đạt mức lợi nhuận chấp nhận được. Khi đó, quản lý rủi ro tín dụng của NHTM cần phải tập trung vào những bộ phận nhạy cảm với lãi suất trong danh mục tài sản nợ - tài sản có, đó là nguồn vốn huy động các khoản vay cần phải tái cấu trúc lại cơ cấu tài sản và nguồn vốn, nhằm hạn chế đến mức tối đa ảnh hưởng xấu của biến động lãi suất đến thu nhập của ngân hàng.

Thứ tư, chênh lệch lãi suất bình quân

Chênh lệch lãi suất bình quân

Thu từ lãi Tổng chi phí trả lãi

= - Tổng Tài sản sinh lời Tổng nguồn vốn phải trả lãi

Đây là chỉ tiêu đo lường chênh lệch lãi suất bình quân đầu vào đầu ra để định lượng hiệu quả kinh doanh ngân hàng trong quá trình huy động vốn và cho vay đồng thời đo lường được mức độ cạnh tranh của từng NHTM trên thị trường. Sự cạnh tranh ngày càng gay gắt thì càng có xu hướng thu hẹp mức chênh lệch lãi suất. Hiện nay, với tốc độ cạnh tranh như vũ bão của các NHTM thì rủi ro do chênh lệch lãi suất là không tránh khỏi, tạo nên nguy hiểm cho ngân hàng khi lãi thu từ tài sản giảm trong khi đó chi phí trả lãi tiền gửi tăng lên đáng kể thu hẹp khoản cách chênh lệch lãi suất, điều này buộc các nhà quản trị NH phải nhanh chóng tìm ra các biện pháp gia tăng các khoản thu khác ngoài lãi như thu từ các dịch vụ khác nhằm để bù đắp khi chênh lệch lãi suất bình quân có xu hướng sụt giảm.

2.2.3.2. Các nhân tố bên ngoài ngân hàng thương mại

- Khách hàng: Những nhân tố thuộc về khách hàng ảnh hưởng tới hiệu

quả tín dụng của ngân hàng thương mại là:

+ Năng lực sản xuất kinh doanh, trình độ quản lý của khách hàng. Nếu năng lực quản lý kinh doanh, trình độ quản lý của khách hàng yếu, chưa đủ sức cạnh tranh trên thị trường, có thể dẫn đến tình trạng khách hàng không trả


được hoặc không trả đủ nợ cho ngân hàng, hoặc ngân hàng phải co cụm trong đầu tư, dẫn đến hiệu quả tín dụng tại ngân hàng bị giảm sút.

+ Kiến thức của khách hàng trong việc vay vốn: Nếu khách hàng không biết những kiến thức cơ bản cần có trong việc vay vốn cũng có thể gây khó khăn cho ngân hàng, thậm chí đẩy ngân hàng vào tình thế tiến thoái lưỡng nan. Những kiến thức này tuy đơn giản, nhưng nếu khách hàng không nắm được, thì sẽ ảnh hưởng không tốt tới hiệu quả tín dụng của ngân hàng thương mại.

+ Tính trung thực, chính xác của những thông tin mà khách hàng cung cấp cho ngân hàng.

Có những khách hàng cố tình cung cấp những thông tin không chính xác, không trung thực cho ngân hàng. Điều này gây khó khăn cho ngân hàng trong việc nắm bắt tình hình sản xuất kinh doanh cũng như việc theo dõi, giám sát, quản lý vốn vay của khách hàng để từ đó có thể đưa ra những quyết định đầu tư đúng đắn, hoặc những biện pháp tình thế kịp thời, điều này làm hiệu quả tín dụng bị giảm sút.

+ Sự chây ỳ của khách hàng: Có trường hợp khách hàng kinh doanh có lãi nhưng họ vẫn không trả nợ cho ngân hàng đúng hạn. Họ chây ỳ với hy vọng có thể không trả nợ hoặc sử dụng vốn vay càng lâu càng tốt. Hành vi này sẽ ảnh hưởng xấu tới hiệu quả tín dụng tại ngân hàng thương mại.

+ Việc sử dụng vốn vay đúng mục đích: Đây là một trong những yêu cầu cơ bản của ngân hàng trước khi cho khách hàng vay và ngân hàng nào cũng có những biện pháp để giám sát mục đích sử dụng vốn của khách hàng. Tuy vậy, việc sử dụng vốn sai mục đích vẫn có thể xảy ra và ảnh hưởng tới hiệu quả tín dụng của ngân hàng. Chẳng hạn, trong quá trình vay vốn khách hàng sử dụng vốn vay không đúng đối tượng đầu tư, không đúng với phương án, mục đích xin vay, thậm chí có khách hàng sử dụng vốn vay ngắn hạn để đầu tư vào tài sản cố định hoặc kinh doanh bất động sản… Chính điều này có thể là nguyên nhân cho việc họ không trả được nợ đúng hạn, thậm chí phá sản, không trả được nợ cho ngân hàng.


+ Việc bị chiếm dụng vốn hoặc bị lừa đảo từ các đối tác:

Tín dụng thương mại ngày càng giữ vai trò quan trọng trong hoạt động kinh tế. Để cạnh tranh, thu hút khách hàng và để tiêu thụ được sản phẩm các doanh nghiệp thường chấp nhận cho khách hàng thanh toán chậm. Tuy nhiên do nước ta chưa có luật về thương phiếu nên việc giải quyết tranh chấp còn nhiều khúc mắc nên nhiều doanh nghiệp đã sử dụng tín dụng thương mại như một phương tiện để chiếm dụng vốn lẫn nhau vì đây là lượng vốn không phải trả hoặc chỉ phải trả với chi phí rất thấp so với lãi suất đi vay cùng loại và các hình thức hoạt động khác. Thậm chí, một số doanh nghiệp làm ăn thua lỗ nên có hành vi lừa đảo, cố tình chiếm dụng vốn của người khác. Chính điều này đã làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của khách hàng, đến các nguồn thu của khách hàng dành trả nợ qua đó ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của khách hàng.

Khi khách hàng bị chiếm dụng vốn, trong đó có vốn vay ngân hàng, thậm chí bị lừa đảo, sẽ khiến cho doanh nghiệp đó không trả được nợ cho ngân hàng, làm hiệu quả của NHTM bị giảm sút.

- Những chủ trương, chính sách của NHNN - cơ quan quản lý vĩ mô trực tiếp của các NHTM có tác động hết sức lớn lao tới hoạt động tín dụng của NHTM. NHNN đưa ra những định hướng lớn và đôi khi cả những hướng dẫn chi tiết cho hoạt động của các NHTM, đặc biệt là hoạt động tín dụng, nhằm thực hiện mục tiêu điều tiết vĩ mô và quản lý. Hiệu quả tín dụng tại NHTM cũng chịu ảnh hưởng của những chủ trương, chính sách đó, khi mà một NHTM không thể đi ngược lại chúng.

- Ngoài ra, cơ chế, chính sách cuả các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác có tác động đến mọi hoạt động của nền kinh tế nên cũng tác động trực tiếp đến khách hàng vay vốn của ngân hàng. Nếu chính sách của nhà nước (như chính sách thuế, chính sách tiền tệ, chính sách xuất nhập khẩu...) không tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư, gây khó khăn cho các doanh nghiệp (gồm các khách hàng của ngân hàng và bản thân ngân hàng) trong sản xuất kinh doanh, hiệu quả tín dụng chắc chắn bị giảm sút.


- Môi trường kinh tế: Điều kiện kinh tế của khu vực mà ngân hàng phục vụ ảnh hưởng lớn tới mở rộng và nâng cao hiệu quả tín dụng. Một nền kinh tế ổn định sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các khoản tín dụng có chất lượng cao và mở rộng tín dụng, ngược lại nền kinh tế không ổn định thì các yếu tố lạm phát, khủng hoảng sẽ làm cho khả năng tín dụng và khả năng trả nợ vay biến động lớn làm ảnh hưởng trực tiếp đến việc thu hồi vốn cho vay của NHTM.

Giới hạn của mở rộng quy mô tín dụng có ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả tín dụng. Nếu mở tín dụng quá giới hạn cho phép sẽ làm cho giá cả tăng quá mức, xảy ra lạm phát tốc độ cao, các NHTM sẽ chịu thiệt hại lớn do đồng tiền mất giá, chất lượng, hiệu quả tín dụng bị giảm thấp. Ngoài ra, chính sách kinh tế của NN điều tiết để ưu tiên hay hạn chế sự phát triển của một ngành, một lĩnh vực nào đó để đảm bảo sự cân đối trong nền kinh tế cũng ảnh hưởng tới hiệu quả tín dụng.

Chu kỳ phát triển kinh tế có tác động không nhỏ tới hoạt động tín dụng. Trong thời kỳ đình trệ SXKD bị thu hẹp, hoạt động tín dụng gặp nhiều khó khăn trên tất cả các lĩnh vực. Nhu cầu vốn tín dụng giảm trong thời kỳ này và nếu vốn tín dụng đã được đầu tư cũng khó có thể sử dụng có hiệu quả hoặc trả nợ đúng hạn cho ngân hàng. Ngược lại, thời kỳ hưng thịnh nhu cầu vốn tín dụng tăng, rủi ro tín dụng ít đi, nhưng cũng không loại trừ trường hợp do chạy đua trong SXKD, nạn đầu cơ tích trữ, làm cho nhu cầu vốn tín dụng lên quá cao và có nhiều khoản tín dụng được đầu tư. Những khoản này cũng có thể khó được hoàn trả nếu sự phát triển SXKD không có kế hoạch nói trên dẫn đến suy thoái và khủng hoảng kinh tế.

Chính sách lãi suất cũng ảnh hưởng tới hiệu quả tín dụng của NHTM. Trong nền KTTT, lãi suất luôn biến động. Trong những trường hợp, lãi suất cho vay giảm, song lãi suất tiền gửi lại giữ nguyên làm cho chênh lệch đầu ra và đầu vào giảm, dẫn đến chi phí nguồn vốn lớn, chi phí sử dụng vốn không bù đắp nổi. Đồng thời mức độ phù hợp giữa lãi suất ngân hàng với lợi nhuận của các doanh nghiệp cũng ảnh hưởng tới chất lượng, hiệu quả tín dụng. Lợi


tức ngân hàng thu được từ hoạt động tín dụng bị giới hạn bởi lợi nhuận của doanh nghiệp SXKD sử dụng vốn vay NH. Vì vậy, với mức lãi suất cao hơn mức lợi nhuận các doanh nghiệp vay vốn thu được từ hoạt động SXKD, các doanh nghiệp sẽ không có khả năng trả nợ ngân hàng, ảnh hưởng tới qúa trình sản xuất của doanh nghiệp nói riêng và tình hình phát triển của toàn bộ nền kinh tế nói chung (trừ các doanh nghiệp có lợi nhuận siêu ngạch hoặc lợi nhuận độc quyền) đầu tư tín dụng này không còn là đòn bẩy để thúc đẩy sản xuất phát triển và theo đó chất lượng, hiệu quả tín dụng cũng bị ảnh hưởng.

- Nhân tố xã hội: Quan hệ tín dụng là sự kết hợp của ba nhân tố: Khách hàng, ngân hàng và sự tín nhiệm, trong đó sự tín nhiệm là cầu nối mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng. Ngân hàng có tín nhiệm càng cao thì thu hút được khách hàng càng lớn. Khách hàng có tín nhiệm đối với ngân hàng thường được vay vốn dễ dàng và có thể được vay với lãi suất thấp hơn so với các đối tượng khác. Tín nhiệm là tiền đề, điều kiện để không ngừng cải tiến chất lượng hoạt động tín dụng. Từ đó có điều kiện nâng cao hiệu quả tín dụng.

Ngoài những yếu tố trên, còn có các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả tín dụng như: đạo đức xã hội, trong trường hợp lợi dụng lòng tin để lừa đảo, hoặc do trình độ hiểu biết hạn chế, dẫn tới hiểu chưa đúng bản chất hoạt động ngân hàng nói chung cũng như hoạt động tín dụng nói riêng, làm ăn kém hiệu quả, không phát huy tốt chức năng và các phương tiện tín dụng… Bên cạnh đó, sự biến động của tình hình kinh tế, chính trị xã hội ở nước ngoài cũng có ảnh hưởng tới hiệu quả tín dụng. Ngoài ra hiệu quả tín dụng còn phụ thuộc vào các yếu tố môi trường như: Thời tiết, dịch bệnh, bão lụt… Và các biện pháp tích cực trong việc bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái.

- Nhân tố pháp lý: Pháp luật là bộ phận không thể thiếu được của nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của NN. Không có pháp luật hoặc pháp luật không phù hợp với yêu cầu phát triển của nền kinh tế thì mọi hoạt động trong nền kinh tế đó không thể tiến hành trôi chảy được. Với vai trò đảm bảo việc hoàn thiện một nền KTTT văn minh, hiện đại, các nhà lập pháp có nhiệm vụ


tạo lập một môi trường pháp lý cho mọi hoạt động SXKD, tiến hành thuận tiện và đạt kết quả cao, là cơ sở pháp lý để tiến hành các vấn đề khiếu nại khi có tranh chấp xảy ra. Vì vậy, nhân tố pháp lý có vị trí hết sức quan trọng đối vợi hoạt động ngân hàng nói chung và đảm bảo hiệu quả tín dụng nói riêng. Chỉ có trong điều kiện các chủ thể tham gia quan hệ tín dụng tuân thủ pháp luật một cách nghiêm chỉnh thì quan hệ tín dụng mới đem lại lợi ích cho cả hai và chất lượng hiệu quả tín dụng mới được đảm bảo.

- Nhân tố môi trường tự nhiên: Đây là nhân tố gián tiếp ảnh hưởng đến mở rộng, nâng cao hiệu quả tín dụng của ngân hàng. Việt Nam là nước có khí hậu nhiệt đới gió mùa, thiên tai, hỏa hoạn, bệnh dịch thường xuyên xảy ra. Điều kiện khí hậu có ảnh hưởng rất lớn đến một số ngành, đặc biệt là những ngành có liên quan đến nông nghiệp, thủy sản, hàng hải… Vì thế, việc đầu tư và những ngành này có thể dẫn đến những rủi ro do môi trường tự nhiên gây ra, làm ảnh hưởng xấu đến chất lượng, hiệu quả tín dụng của NHTM.

- Nhân tố bất khả kháng: Khách hàng của ngân hàng có thể đối mặt với những nhân tố bất khả kháng như: thiên tai, chiến tranh, hỏa hoạn, dịch bệnh,... Những thay đổi này có thể tạo thuận lợi hoặc khó khăn cho họ. Nếu khó khăn, trong một số trường hợp, khách hàng bị tổn thất nhưng vẫn có thể hoàn trả nợ cho ngân hàng đúng hạn. Tuy vậy, thường là tác động của những nhân tố bất khả kháng như tác động tới người vay rất nặng nề, họ thường tổn thất lớn và khả năng trả nợ bị suy giảm, thậm chí không còn khả năng trả nợ. các nhân tố này được gọi là nhân tố bất khả kháng vì chúng thường vượt quá tầm của cả ngân hàng và khách hàng.

Tóm lại, qua nghiên cứu nội dung các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả tín dụng nhận thấy rằng: tùy theo sự phát triển, điều kiện kinh tế xã hội và sự hoàn thiện môi trường pháp lý của từng nước cũng như khả năng quản lý, cơ sở vật chất kỹ thuật và trình độ cán bộ của từng NHTM mà các nhân tố này có ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu quả tín dụng khác nhau. Và nếu các NHTM biết vận dụng sáng tạo sự ảnh hưởng của các nhân tố này trong hoàn cảnh


thực tế, sẽ tìm được những biện pháp quản lý có hiệu quả để củng cố và nâng cao hiệu quả tín dụng hạn chế đến mức thấp nhất rủi ro, cuối cùng là sẽ dễ dàng mang lại hiệu quả tín dụng cho các NHTM.

2.3. KINH NGHIỆM NÂNG CAO HIỆU QUẢ TÍN DỤNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRONG VÀ NGOÀI NƯỚC

2.3.1. Kinh nghiệm của một số Ngân hàng thương mại ở khu vực châu Á

Sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á năm 1997 - 1998, các ngân hàng ở Thái Lan đã xem xét lại chính sách, cách thức, quy trình hoạt động của ngân hàng, trọng tâm là hoạt động tín dụng và phòng ngừa rủi ro tín dụng [86].

Tại Bangkok Bank, trước đây, các bộ phận trong quy trình giải quyết các khoản vay được gộp vào nhau. Để đảm bảo tính khách quan trong quá trình làm việc, hiện nay, ngân hàng này đã tách các bộ phận này thành các bộ phận độc lập với nhau là bộ phận tiếp nhận, giải quyết hồ sơ và bộ phận thẩm định. Trong đó, bộ phận thẩm định đóng vai trò rất quan trọng trong việc lập các báo cáo thẩm định, báo cáo xếp hạng rủi ro…

Ngân hàng Siam Commercial Bank (SCB) cũng đã xây dựng mô hình tổ chức triển khai dịch vụ tín dụng theo nguyên tắc phân định rõ trách nhiệm của các bộ phận nghiên cứu thị trường, tiếp thị, bộ phận thẩm định và bộ phận quyết định cho vay. Ngân hàng tiến hành phân loại khách hàng theo từng nhóm khác nhau như khách hàng tiêu dùng, khách hàng kinh doanh, tình trạng thu nhập, điều kiện kinh tế của từng khách hàng cũng được nghiên cứu để tạo cơ sở thông tin cho các bộ phận làm nhiệm vụ liên quan đến cấp tín dụng tiếp nhận, giải quyết hồ sơ, thẩm định và ra quyết định cho vay.

Ngân hàng Kasikorn Bank đã ban hành quy trình cho vay với các khâu như tiếp xúc khách hàng, phân tích tín dụng, thẩm định tín dụng, đánh giá rủi ro tín dụng, quyết định cho vay, giải ngân, đánh giá chất lượng, xem xét lại khoản vay. Trong quy trình trên, bộ phận làm việc với khách hàng và xử lý


thông tin, hồ sơ tín dụng độc lập hoàn toàn với bộ phận đưa ra quyết định cho vay cuối cùng. Ngân hàng này còn áp dụng quy trình ra quyết định tự động. Theo quy trình này, ngân hàng sẽ nhận đơn xin vay của khách hàng từ các kênh trực tiếp như đơn, thư của người vay, của nhân viên trực tiếp tiếp thị của ngân hàng hoặc thông qua các loại hình giao tiếp điện tử. Sau đó, các dữ liệu về người vay được nhập vào chương trình dữ liệu của ngân hàng. Trong khâu này, ngân hàng phải thu thập đầy đủ tất cả các thông tin cần thiết về người vay. Sau khi đã có đủ thông tin, ngân hàng sẽ tiếp xúc trực tiếp với người vay để xác minh sự tồn tại thực sự của họ. Thông tin về người vay cũng được kiểm tra thông qua cơ quan quản lý tín dụng của Chính phủ. Cuối cùng, nhân viên ngân hàng sẽ xác nhận xem giới hạn tín dụng, hay mức vay mà khách hàng đề xuất có phù hợp với chương trình chấm điểm tự động đã được ngân hàng định sẵn hay không. Sau đó, ngân hàng sẽ đưa ra quyết định cho vay hay không và mức cho vay, các điều kiện vay. Nguyên tắc được ngân hàng hết sức chú trọng là quyết định tín dụng chỉ được đưa ra khi tất cả thông tin về khách hàng được cập nhật và đầy đủ.

Tại Kasikorn Bank, trước đây chỉ quan tâm đến tài sản thế chấp, không quan tâm đến dòng tiền của khách hàng vay. Vì thế, nợ xấu đã tăng lên nhanh và rất cao, giai đoạn khủng hoảng tài chính tiền tệ 1997 - 1998, nợ xấu lên tới 40%. Đến nay, ngân hàng đã tập trung quan tâm đến hồ sơ cá nhân của người vay, đến khả năng trả nợ. Cụ thể, đối với mỗi hồ sơ vay ngân hàng đều phải nắm được thông tin về người vay như tư cách người vay, lịch sử tín dụng của người vay, hiệu quả kinh doanh của người vay, mục đích khoản vay, khả năng kiểm soát các khoản vay, thực trạng thu nhập, tài chính của người vay. Ngân hàng sử dụng mẫu giao dịch của khách hàng hiện có với các tiêu chí về lịch sử pháp lý, lịch sử giao dịch, lịch sử thanh toán…để dự báo rủi ro và chấm điểm uy tín của khách hàng. Đối với khách hàng cá nhân, ngân hàng còn thu thập cả dữ liệu về giới tính, tuổi tác, tình trạng hôn nhân, kinh nghiệm làm việc, số dư tiền gửi của khách hàng. Đối với doanh nghiệp,Ngân hàng dựa

Xem tất cả 142 trang.

Ngày đăng: 21/04/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí