- Hoạt động tín dụng tạo điều kiện thuận lợi cho sự vận hành các công cụ lưu thông hàng hóa giảm chi phí tiền mặt như thương phiếu, kỳ phiếu ngân hàng, các loại séc, các phương tiện thanh toán hiện đại như: thẻ tín dụng, thẻ thanh toán…
- Hoạt động tín dụng ngân hàng tạo điều kiện cho khách hàng mở tài khoản và thực hiện thanh toán thông qua ngân hàng với chi phí thấp dưới các hình thức chuyển khoản và bù trừ cho nhau. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của tín dụng thì hệ thống thanh toán qua ngân hàng ngày càng được mở rộng cho phép thực hiện rất nhiều giao dịch có quy mô thanh toán lớn trong thời gian ngắn.
- Tín dụng ngân hàng có chức năng tạo tiền, nhờ đó giảm chi phí phát hành tiền mặt của NHNN, qua đó giảm chi phí sử dụng tiền trong các quan hệ kinh tế - xã hội.
Ba là, thông qua hoạt động tín dụng, NHTM có thể giám sát các hoạt động kinh tế.
Thông qua việc huy động vốn, cho vay và giám sát sử dụng vốn vay của các thành phần kinh tế, NHTM năm được nhiều hoạt động của các chủ thể kinh tế, qua đó có thể phân tích và dự báo các quá trình phát triển chung trong nước và quốc tế. Vì thế, các NHTM đều có khả năng thu thập và cung cấp thông tin cho NHNN để có thể dự báo xu hướng phát triển kinh tế, qua đó chủ động ứng phó khi có biến động xảy ra.
Ngoài ra, thông qua quá trình tập trung và phân phối lại nguồn vốn xã hội, tín dụng ngân hàng phản ánh trình độ phát triển kinh tế về các mặt: khối lượng tiền tệ nhàn rỗi trong xã hội, nhu cầu vốn trong từng thời kỳ, khối lượng tiền trong lưu thông… qua đó giúp Chính phủ có cái nhìn tổng quát về những quan hệ cân đối lớn trong nền kinh tế, đặc biệt là quan hệ giữa tích lũy và tiêu dùng.
Đặc biệt trong hoạt động cho vay của ngân hàng, để góp phần đảm bảo an toàn về vốn, ngân hàng luôn thực hiện quá trình kiểm tra tình hình tài chính của các đơn vị nhằm phát hiện kịp thời những trường hợp vi phạm chế độ quản lý kinh tế của nhà nước. Bên cạnh đó trên cơ sở thực hiện nguyên tắc
cho vay có hoàn trả, tín dụng ngân hàng còn phản ánh kịp thời tình hình quản lý và sử dụng vốn của các đơn vị có hiệu quả hay không. Ngoài ra, thông qua việc tổ chức công tác thanh toán không dùng tiền mặt, NHTM còn tạo điều kiện để Nhà nước kiểm soát bằng đồng tiền các đơn vị kinh tế, vì mọi quá trình hình thành và sử dụng vốn của các doanh nghiệp đều được phản ánh và lưu giữ qua số liệu trên tài khoản tiền gửi.
Có thể bạn quan tâm!
- Hiệu quả tín dụng của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Quảng Nam - 2
- Những Nghiên Cứu Về Hoạt Động Tín Dụng Của Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam
- Tổng Quan Về Tín Dụng Của Ngân Hàng Thương Mại
- Kinh Nghiệm Nâng Cao Hiệu Quả Tín Dụng Của Các Ngân Hàng Thương Mại Trong Và Ngoài Nước
- Kinh Nghiệm Nâng Cao Hiệu Quả Tín Dụng Của Một Số Ngân Hàng Trong Nước
- Quy Mô Huy Động Vốn Của Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông Thôn Tỉnh Quảng Nam
Xem toàn bộ 142 trang tài liệu này.
Nói tóm lại, tín dụng NHTM không những cung cấp thông tin cho các cơ quan quản lý kinh tế vĩ mô, mà còn góp phần vào ổn định kinh tế vĩ mô thông qua hoạt động giám sát sử dụng vốn của mình.
Bốn là, tín dụng ngân hàng góp phần thúc đẩy nền kinh tế chuyển dịch theo hướng hiện đại.
Nguyên tắc cung cấp tín dụng ngân hàng là việc sử dụng vốn phải hiệu quả để chủ thể vay vốn có khả năng hoàn trả vốn và lãi cho ngân hàng. Chính vì thế, NHTM phải sàng lọc dự án và khách hàng, chỉ cho vay các hoạt động có hiệu quả. Thông qua hoạt động này, tín dụng ngân hàng góp phần vào phân bổ nguồn lực trong nền kinh tế, tăng cường vốn cho các lĩnh vực, ngành nghề, khu vực và tổ chức, cá nhân sử dụng vốn hiệu quả, rút vốn khỏi các lĩnh vực, khu vực, tổ chức sử dụng vốn không hiệu quả. Kết quả của sự lựa chọn phân bổ vốn tín dụng ngân hàng theo nguyên tắc như vậy đã góp phần thúc đẩy nền kinh tế chuyển dịch cơ cấu theo hướng tiến bộ, phát triển các ngành có lợi thế cạnh tranh, có mức sinh lời cao, có khả năng sử dụng nguồn lực khan hiếm hiệu quả hơn.
Năm là, tín dụng ngân hàng góp phần mở rộng mối quan hệ giao lưu
kinh tế, quốc tế.
NHTM là cầu nối các hoạt động kinh tế trong nước với nước ngoài, trong đó tín dụng ngân hàng có vai trò quan trọng. Tín dụng ngân hàng cung cấp điều kiện cho các hoạt động buôn bán ngoại thương diễn ra thuận lợi thông qua nghiệp vụ bảo lãnh thanh toán hoặc thanh toán quốc tế. Tín dụng ngân hàng còn hỗ trợ các chủ thể kinh tế trong nước đầu tư ra nước ngoài
thông qua các nghiệp vụ vay vốn ở chi nhánh ngân hàng đặt ở nước ngoài hoặc thanh toán vốn vay của ngân hàng ở nước ngoài. Tín dụng ngân hàng cũng hỗ trợ nhà đầu tư nước ngoài huy động vốn trong nước bổ sung cho hoạt động kinh doanh của họ ở nước sở tại, qua đó tạo điều kiện hấp dẫn hơn trong thu hút nhà đầu tư nước ngoài.
Tóm lại, tín dụng NH có vai trò hết sức quan trọng không chỉ đối với bản thân NH mà còn với cả xã hội. Để tín dụng phát huy được hết vai trò của nó thì các nhà quản lý NH cũng như các cơ quan quản lý của Nhà nước phải tạo điều kiện cho tín dụng được thực hiện một cách hiệu quả.
2.2. HIỆU QUẢ TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
2.2.1. Quan niệm về hiệu quả tín dụng ngân hàng thương mại
Hiệu quả, theo nghĩa phổ biến nhất, là thuật ngữ chỉ mối quan hệ giữa kết quả và chi phí của một hoạt động nào đó. Sở dĩ thuật ngữ hiệu quả được sử dụng phổ biến trong xã hội vì nó phản ánh được mong muốn của con người muốn đạt được điều mình muốn với nguồn lực chi phí thấp nhất.
Trong hoạt động kinh doanh, hiệu quả thể hiện quan hệ tương quan giữa đầu vào, đầu ra của doanh nghiệp. Mối quan hệ tương quan này có thể phản ánh mặt lượng của quá trình hoạt động (giá trị đầu ra lớn hơn giá trị đầu vào) và được đo bằng hệ thống các chỉ tiêu lợi nhuận, doanh thu, chi phí…, cũng có thể phản ánh sự thay đổi về chất của doanh nghiệp như uy tín, thị phần, năng lực tài chính, công nghệ, chủng loại sản phẩm…
Như vậy, hiệu quả khác với kết quả. Kết quả là cái đạt được do hoạt động kinh doanh mang lại nhưng chưa tính đến các yếu tố chi phí để có kết quả đó. Còn hiệu quả là sự tương quan, sự so sánh giữa kết quả với chi phí trong hoạt động kinh doanh. Nói cách khác, hiệu quả là sự so sánh giữa cái đạt được (kết quả) với cái đặt ra (mục tiêu) hoặc cái bỏ ra (chi phí). Hiệu quả có nội dung rất rộng và được xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau; góc độ kinh tế, góc độ xã hội hoặc góc độ môi trường.
Hiệu quả kinh tế được đo lường bằng các chỉ tiêu kinh tế như lợi nhuận, thị phần tăng thêm, uy tín tăng thêm, tiềm lực kinh tế tăng thêm… Nhìn chung, hiệu quả kinh tế thường được các nhà kinh tế lượng hóa thành tiền dưới dạng quan hệ lợi ích/ chi phí. Hình thái của mối quan hệ lợi ích và chi phí kinh tế phụ thuộc vào đặc điểm hoạt động của tổ chức và mục tiêu mà tổ chức đặt ra.
Tín dụng ngân hàng được nghiên cứu trong luận án này là hoạt động thuần túy có tính chất chuyển giao quyền sử dụng tiền từ người này qua người khác, không bao hàm các hoạt động tác động của con người vào tự nhiên, cũng không tính đến hiệu quả của hoạt động do người vay tiền gây ra cho xã hội nên khó xác định tác động của nó đối với xã hội và môi trường. Chính vì thế, quan niệm hiệu quả tín dụng ngân hàng ở đây chỉ giới hạn ở phương diện kinh tế (sau đây gọi tắt là hiệu quả tín dụng ngân hàng với hàm ý là hiệu quả kinh tế).
Với những phân tích nêu trên, có thể quan niệm hiệu quả tín dụng của NHTM là kết quả so sánh giữa lợi ích mà NHTM nhận được từ hoạt động tín dụng và chi phí mà NHTM phải bỏ ra để thực hiện hoạt động tín dụng.
Trong khái niệm nêu trên, lợi ích mà NHTM nhận được từ hoạt động
tín dụng gồm:
- Hoàn đủ vốn và có lãi. Ở đây việc hoàn vốn không đem lại giá trị gia tăng cho NHTM, những nếu không hoàn vốn thì NHTM sẽ thua lỗ. Do vậy, có thể coi việc hoàn vốn như phần bù đắp khấu hao tài sản cố định trong doanh nghiệp. Một cách trực tiếp, khoản lãi mang lại càng nhiều thì lợi ích của NHTM càng lớn.
- Ngoài lợi ích trực tiếp là lãi cho vay, NHTM còn nhận được những lợi ích phi tiền tệ khác từ hoạt động tín dụng như thị phần (là lợi ích giúp NHTM chi phối lãi suất và quy mô cho vay), uy tín (cho phép huy động với lãi suất tháp, cho vay khách hàng lớn…); điều kiện thuận lợi để thực hiện các dịch vụ có thu nhập bổ sung như thanh toán, chuyển tiền, tư vấn tài chính, quản lý tài sản, bảo lãnh phát hành chứng khoán…
2.2.2. Các chỉ tiêu đo lường hiệu quả tín dụng của ngân hàng thương mại
Với quan niệm về hiệu quả tín dụng như trên, có thể thấy rằng tiêu chí cuối cùng để đánh giá hiệu qủa tín dụng của một ngân hàng là lợi nhuận từ hoạt động tín dụng xét dưới góc độ giá trị tuyệt đối và tốc độ tăng trưởng. Tuy nhiên để có thể xác định được hiệu quả tín dụng cuối cùng, hay để đạt được lợi nhuận từ hoạt động tín dụng, ngân hàng cần phải phân tích cả các chỉ tiêu trung gian. Trong phần này, các chỉ tiêu đo lường hiệu quả tín dụng của ngân hàng thương mại được phân loại thành 2 nhóm chỉ tiêu. Một là, nhóm chỉ tiêu xác định hiệu quả tín dụng cuối cùng lợi nhuận tín dụng thể hiện qua chỉ tiêu quy mô lợi nhuận tín dụng và tốc độ tăng trưởng lợi nhuận tín dụng. Hai là nhóm các chỉ tiêu trung gian. Trong nhóm các chỉ tiêu trung gian có nhóm chỉ tiêu đánh giá chung và nhóm chỉ tiêu đánh giá trực tiếp hiệu quả tín dụng.
2.2.2.1. Nhóm các chỉ tiêu đánh giá chung
- Quy mô tín dụng: Quy mô tín dụng của một NHTM có thể được đánh giá bởi nhiều chỉ tiêu. Trong đó có một số chỉ tiêu đặc trưng quan trọng nhất là chỉ tiêu tổng dư nợ và thị phần cho vay của doanh nghiệp trên thị trường. Thị phần cho vay của NHTM được thể hiện qua dư nợ của ngân hàng khi so sánh với dư nợ của các ngân hàng trên địa bàn. Thị phần cho biết quy mô tín dụng của ngân hàng đang xem xét là lớn hay nhỏ. Thị phần lớn đem lại cho NHTM lợi thế trong hoạch định chính sách lãi suất và thu hút được các khách hàng có tiềm lực và có khả năng sử dụng vốn tốt, nhờ đó NHTM vừa tăng khả năng hoàn vốn, vừa tăng khả năng thu lợi nhuận lớn.
- Chỉ tiêu phản ánh tốc độ tăng doanh số từ hoạt động tín dụng
Tốc độ tăng doanh
số cho vay
Doanh số cho vay kỳ này
= - 1 100%
Doanh số cho vay kỳ trước
Doanh số cho vay thể hiện quy mô tuyệt đối của hoạt động tín dụng của NHTM, còn tốc độ tăng doanh số thể hiện khả năng mở rộng quy mô đầu tư tín dụng qua các thời kỳ. Doanh số cho vay lớn và tốc độ cho vay tăng cho thấy khả
năng mở rộng tín dụng của NHTM, đây là tình hình tốt đối với NHTM. Tuy nhiên, đây mới chỉ là điều kiện chứ chưa thể khẳng định hiệu quả tín dụng của NHTM mà cần phải kết hợp nghiên cứu, phân tích với các chỉ tiêu khác.
2.2.2.3 Nhóm các chỉ tiêu đánh giá trực tiếp hiệu quả tín dụng
Có rất nhiều chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tín dụng nhưng tác giả chú trọng đến các chỉ tiêu sau: Tỷ lệ nợ xấu, hiệu quả sử dụng vốn, hệ số thu nợ, vòng quay vốn tín dụng, hệ số rủi ro tín dụng.
- Chỉ tiêu tỷ lệ nợ xấu (Non-Performance Loan - NPL)
Chỉ tiêu tỷ lệ nợ xấu được xác định tại từng thời điểm theo công thức sau:
Nợ xấu
Tỷ lệ nợ xấu = X 100%
Tổng dư nợ
Chỉ tiêu nợ xấu cho biết, trong 100 đồng tổng dư nợ thì có bao nhiêu đồng là nợ xấu. Chính vì vậy, tỷ lệ nợ xấu là chỉ tiêu cơ bản đánh giá chất lượng tín dụng của ngân hàng. Nợ xấu phản ảnh khả năng thu hồi vốn khó khăn, vốn của ngân hàng lúc này không còn ở mức độ rủi ro thông thường nữa mà là nguy cơ mất vốn.
Chỉ tiêu này phản ảnh tình hình nợ quá hạn trong quá trình cho vay. Chỉ tiêu này càng thấp thì hiệu quả hoạt động của NHTM càng tốt và ngược lại. Bởi vì, chỉ tiêu này cao thể hiện NHTM đang gặp nhiều rủi ro. Tuy nhiên trong thực tế, rủi ro trong hoạt động tín dụng của NHTM là không thể tránh khỏi. Vì vậy, việc đưa ra một tỷ lệ nợ quá hạn theo thông lệ quốc tế chỉ tiêu này phải được kiểm soát trong phạm vi không quá 5% được xem là giới hạn an toàn của các NHTM.
Tuỳ theo quy định của mỗi quốc gia mà một khoản nợ quá hạn sẽ được xếp vào nợ xấu. Nợ xấu cũng được phân loại theo các mức độ khác nhau tuỳ thuộc vào thời gian quá hạn của nợ gốc, nợ lãi hay thời gian gia hạn, điều chỉnh kỳ hạn trả nợ, cơ cấu lại nợ. Mức độ nợ thấp nhất được gọi là nợ dưới tiêu chuẩn, mức cao nhất là các khoản nợ có khả năng mất vốn.
- Hiệu quả sử dụng vốn (efficient use of capital - EUC)
Tổng dư nợ
Hiệu quả sử dụng vốn = 100%
Tổng nguồn vốn
Chỉ tiêu này phản ánh trong một đồng vốn huy động NHTM thực hiện cho vay bao nhiêu, tức là nói lên khả năng cho vay vốn so với tổng nguồn vốn của NHTM. Hiệu suất sử dụng vốn càng cao thì hiệu quả hoạt động tín dụng của NHTM càng cao và ngược lại. Tuy nhiên, cũng cần kết hợp với các chỉ tiêu khác để đánh giá hiệu quả tín dụng của NHTM thuần túy. Nếu chỉ dựa vào một chỉ tiêu này, đánh giá sẽ phiến diện, dễ dẫn đến đánh giá sai. Ví dụ, tỷ lệ nợ quá hạn cao trong khi hiệu suất sử dụng vốn cũng cao thì hiệu quả hoạt động tín dụng của NHTM chưa hẳn đã cao, thậm chí còn thấp.
- Hệ số rủi ro tín dụng (Credit risk factor - CRF)
Dư nợ tín dụng
Hệ số rủi ro tín dụng = 100%
Tổng tài sản có
Chỉ tiêu này phản ánh dư nợ tín dụng so với tổng tài sản có, khả năng sử dụng nguồn vốn để cho vay. Nếu chỉ tiêu này quá cao thì lợi nhuận tăng, rủi ro gia tăng vì các khoản dự trữ của NHTM thấp không đảm bảo an toàn trong kinh doanh, ngược lại chỉ tiêu này giảm thì có thể lợi nhuận bị sụt giảm, các khoản dự trữ đảm bảo khả năng thanh toán tăng đảm bảo an toàn cho NHTM. Vì vậy, các nhà quản trị luôn tìm cách duy trì tỷ lệ này ở mức hợp lý là 60% - 80% so với tổng tài sản có nhằm giải quyết cân bằng mục tiêu lợi nhuận và đảm bảo khả năng thanh toán của NHTM.
- Hệ số thu nợ (Ratio obtained debt - ROD)
Doanh số thu nợ
Hệ số thu nợ = 100%
Doanh số cho vay
Chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả thu nợ của ngân hàng hay khả năng trả nợ vay của khách hàng, cho biết số tiền mà ngân hàng thu được trong một thời kỳ kinh doanh nhất định từ một đồng doanh số cho vay. Hệ số thu nợ càng lớn thì càng được đánh giá tốt, cho thấy công tác thu hồi vốn của ngân hàng càng hiệu quả và ngược lại.
- Vòng quay vốn tín dụng (Turnover credit - TOC)
Chỉ tiêu này còn được gọi là chỉ tiêu vòng quay vốn tín dụng. Nó đo lường
chất lượng luân chuyển vốn tín dụng, thời gian thu hồi nợ nhanh hay chậm.
Chỉ tiêu vòng quay vốn tín dụng thể hiện tốc độ luân chuyển các khoản vay mà ngân hàng cấp cho nền kinh tế, hay nói cách khác chỉ tiêu này cho biết ngân hàng thu được nợ nhanh hay chậm từ đó cân đối để cho vay mới lại. Đây là chỉ tiêu quan trọng được ngân hàng tính toán hàng năm để đánh giá khả năng cung ứng vốn tín dụng và chất lượng tín dụng trong việc đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Hệ số phản ảnh vòng quay vốn tín dụng được thể hiện như sau:
Doanh số thu nợ
Vòng quay vốn tín dụng =
Dư nợ bình quân
2
Trong đó: Dư nợ bình quân = Dư nợ đầu năm + Dư nợ cuối năm
Trên thực tế, vòng quay vốn tín dụng càng cao chứng tỏ nguồn vốn vay ngân hàng đã luân chuyển nhanh, tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất lưu thông, tiết kiệm chi phí (ngân hàng có thể chủ động cân đối được nguồn vốn để cho vay mới, giảm chi phí trích dự phòng rủi ro tín dụng đối với những khoảng nợ trả chậm), tạo lợi nhuận lớn cho ngân hàng. Vòng quay vốn tín dụng càng cao càng mang lại hiệu quả tín dụng cho ngân hàng.
2.2.2.3. Chỉ tiêu lợi nhuận từ hoạt động tín dụng
Để đánh giá hiệu quả hoạt động tín dụng của ngân hàng trước hết phải nói đến lợi nhuận từ hoạt động này mang lại cho ngân hàng. Vì ngân hàng cũng là một doanh nghiệp kinh doanh nhóm hàng hóa đặc biệt đó là tiền tệ, cũng như những doanh nghiệp khác, mục tiêu mà nó hướng tới vẫn là lợi nhuận. Do vậy, ngân hàng phải tính toán để đạt được lợi nhuận cao nhất và giảm chi phí, rủi ro đến mức thấp nhất, phải so sánh lợi nhuận thu được với nguy cơ rủi ro mà hoạt động tín dụng đem lại. Đó là lý do vì sao trong việc
đánh giá hiệu quả hoạt động tín dụng của ngân hàng chúng ta cần phải phân
tích lợi nhuận từ hoạt động tín dụng của NHTM.
Hoạt động tín dụng là hoạt động chủ yếu của các NH. Lợi nhuận từ hoạt động tín dụng của ngân hàng đó là hệ số giữa thu nhập từ lãi suất trừ cho chi phí lãi suất.
Lợi nhuận từ hoạt động tín dụng = Thu nhập từ hoạt động tín dụng - Chi phí hoạt động tín dụng
Đồng thời để đánh giá đúng sự tăng trưởng hiệu quả tín dụng qua các thời kỳ, người ta thường dùng tỷ lệ tăng trưởng lợi nhuận, tỷ lệ này phản ánh rõ nét về sự biến động của thị trường cũng như đánh giá đúng hoạt động tín dụng cũng như các chính sách tín dụng áp dụng qua các thời kỳ có phù hợp hay không.
LNTD kỳ trước
Tỷ lệ tăng tưởng LNTD =LNTD kỳ này - LNTD kỳ trước x100
2.2.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả tín dụng ngân hàng
2.2.3.1. Các nhân tố bên trong ngân hàng thương mại
- Chính sách tín dụng ngân hàng: Đây là nhân tố đóng vai trò then chốt điều tiết các mặt hoạt động của NHTM như: huy động vốn và cho vay, điều hành lãi suất tín dụng, đưa ra các sản phẩm tín dụng, biện pháp quản lý rủi ro tín dụng và thu hút khách hàng… Tùy theo từng thời kỳ, chính sách tín dụng có những điều chỉnh phù hợp với thực trạng thị trường và chính sách của NHNN. Một chính sách tín dụng đúng đắn được đưa ra sẽ tạo điều kiện cho NHTM sử dụng tối ưu hóa nguồn vốn của mình khi cho vay, thu hút được nhiều khách hàng, đảm bảo khả năng sinh lời từ hoạt động tín dụng, đảm bảo an toàn trong kinh doanh, là điều kiện quan trọng nâng cao hiệu quả tín dụng của NHTM.
- Khả năng huy động nguồn vốn của ngân hàng:
Nguồn vốn cho vay bằng tiền là cơ sở để ngân hàng hoạt động tín dụng. Quy mô và cơ cấu vốn quyết định lựa chọn các hình thức đầu tư, nguyên tắc
cơ bản mà ngân hàng luôn tuân thủ trong khi cho vay là: thời gian huy động
vốn tương ứng với thời gian cho vay.
Nếu ngân hàng sử dụng một lượng lớn nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung - dài hạn thì có thể xảy ra tình trạng: ngân hàng không thanh toán kịp thời cho những khoản huy động ngắn hạn trong khi các khoản vay trung - dài hạn chưa đến hạn và nguồn tiền gửi mới thì chưa huy động được.
Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt, hoạt động huy động vốn của các ngân hàng hết sức khó khăn. Chính vì lẽ đó, để thực hiện chiến lược đa dạng hóa, đa phương hóa các phương thức, giải pháp huy động vốn từ mọi nguồn, kể cả nước ngoài, ngân hàng phải tạo được cơ cấu nguồn vốn hợp lý. Từ kinh nghiệm và thực tế, NHNN đã cho phép các NHTM được dùng 30% vốn ngắn hạn để đầu tư cho các dự án trung - dài hạn.
- Chất lượng bộ máy tổ chức, quản lý ngân hàng: Bộ máy tổ chức ngân hàng phải sắp xếp một cách khoa học, đảm bảo sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa các phòng ban trong từng ngân hàng, trong toàn bộ hệ thống ngân hàng cũng như giữa ngân hàng với các cơ quan khác như tài chính, pháp lý… tạo điều kiện đáp ứng kịp thời yêu cầu của khách hàng, giúp ngân hàng theo dõi, quản lý sát sao các khoản cho vay, các khoản huy động vốn. Đây là cơ sở để tiến hành các nghiệp vụ tín dụng lành mạnh và quản lý có hiệu quả các khoản vốn tín dụng.
- Chất lượng cán bộ tín dụng của ngân hàng:
Đây là nhân tố hết sức quan trọng trong lĩnh vực hoạt động ngân hàng. Sự thành công trong hoạt động tín dụng phụ thuộc vào năng lực, trách nhiệm của cán bộ tín dụng. Cán bộ tín dụng là người trực tiếp quản lý toàn bộ số vốn từ khi đầu tư cho đến khi kết thúc hợp đồng tín dụng, do đó họ cần phải phân tích kỹ tình hình tài chính doanh nghiệp, phân tích dự án của khách hàng vay vốn, quản lý và giám sát tình hình sử dụng vốn vay. Xã hội ngày càng phát triển đòi hỏi chất lượng nhân sự ngày càng cao để có thể đáp ứng kịp thời, có hiệu quả với các tình huống khác nhau của hoạt động tín dụng. Việc tuyển chọn nhân sự có đạo đức nghề nghiệp tốt và giỏi về chuyên môn sẽ giúp cho
ngân hàng có thể ngăn ngừa được những sai phạm có thể xảy ra khi thực hiện
chu kỳ khép kín của một khoản tín dụng.
Trình độ chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ tín dụng cũng quyết định đến sự thành công của công tác tín dụng. Cán bộ tín dụng giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, có kỹ năng, kinh nghiệm đánh giá chính xác tính khả thi của dự án, xác định được tính chân thực của báo cáo tài chính, dễ dàng phát hiện các hành vi cố tình lừa đảo của khách hàng như: sửa chữa báo cáo tài chính, lập hồ sơ thế chấp giả, dùng một tài sản để đi vay ở nhiều nơi,... từ đó phân tích được khả năng quản lý doanh nghiệp và năng lực thực sự của khách hàng để quyết định có cho vay hay không.
Ngoài trình độ chuyên môn nghiệp vụ, cán bộ tín dụng cần có sự hiểu biết sâu rộng về pháp luật, môi trường kinh tế xã hội, đường lối phát triển của đất nước, của thị trường… dự đoán trước được những biến động có thể xảy ra từ đó tư vấn cho khách hàng xây dựng lại phương án kinh doanh cho phù hợp. Nghiệp vụ hoạt động hàng ngày càng phát triển đòi hỏi chất lượng nhân sự ngày càng cao để sử dụng các phương tiện, phương pháp làm việc hiện đại thích ứng với sự phát triển không ngừng của xã hội. Cán bộ tín dụng giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, có đạo đức nghề nghiệp và sự hiểu biết rộng chính là cơ sở để nâng cao chất lượng công tác tín dụng trong hoạt động của các NHTM.
- Qui trình tín dụng:
Đảm bảo qui trình tín dụng là một việc rất quan trọng đối với mỗi hệ thống ngân hàng, nó đảm bảo sự thống nhất trong quá trình hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại.
Qui trình tín dụng bao gồm những qui định phải thực hiện trong quá trình cho vay, thu nợ nhằm đảm bảo an toàn vốn tín dụng; được bắt đầu từ khi chuẩn bị cho vay, phát tiền vay, kiểm tra quá trình sử dụng vốn cho đến khi thu hồi được nợ. Hiệu quả tín dụng có đảm bảo hay không tùy thuộc vào việc thực hiện tốt các qui định ở từng bước và sự phối hợp nhịp nhàng giữa các bước trong qui trình tín dụng.
Trong quy trình tín dụng, bước chuẩn bị cho vay (khách hàng viết đơn xin vay và Ngân hàng tiếp nhận và đánh giá đơn xin vay để quyết định cho vay hay không cho vay) rất quan trọng, là cơ sở để định lượng rủi ro trong quá trình cho vay. Trong bước này, hiệu quả tín dụng tùy thuộc về công tác thẩm định đối tượng được vay vốn cũng như những quy định về điều kiện và thủ tục cho vay của từng NHTM.
Kiểm tra quá trình cho vay giúp ngân hàng nắm được nguyên nhân diễn biến của khoản tín dụng đã cung cấp để có những hành động điều chỉnh hoặc can thiệp khi cần thiết, ngăn ngừa những rủi ro có thể xảy ra.
Thu nợ và tất toán khoản nợ là khâu quan trọng có tính quyết định tới sự tồn tại của Ngân hàng, do đó Ngân hàng phải tích cực trong công tác thu nợ. Sự nhạy bén kịp thời của Ngân hàng trong việc phát hiện kịp thời những điều kiện bất lợi xảy ra đối với khách hàng cùng những biện pháp xử lý chính xác, đúng lúc sẽ giảm thiểu các khoản nợ quá hạn và điều đó sẽ có tác dụng tích cực đối với hiệu quả tín dụng. Sự phối kết nhịp nhành giữa các bước trong quy trình tín dụng sẽ tạo điều kiện cho vốn tín dụng được luân chuyển bình thường, theo đúng kế hoạch đã định, nhờ đó đảm bảo được hiệu quả tín dụng.
- Chiến lược kinh doanh của Ngân hàng:
Để đạt được mục tiêu của mình mỗi ngân hàng đã tự đề ra cho mình những chiến lược kinh doanh phù hợp với tiềm lực và thế mạnh của mình để đạt được những mục tiêu nhất định mà ngân hàng đề ra.
Chiến lược kinh doanh là nhân tố ảnh hưởng trước tiên tới hiệu quả tín dụng. Ngân hàng thương mại cần có chiến lược kinh doanh phù hợp để không rơi vào thế bị động trong hoạt động kinh doanh của mình. Dựa trên chiến lược kinh doanh dài hạn đúng đắn, ngân hàng thương mại mới có thể có những kế hoạch đúng đắn cho từng thời kỳ để bảo đảm thực hiện mục tiêu đề ra.
- Hệ thống thông tin tín dụng
Thông tin tín dụng có vai trò quan trọng trong quản lý chất lượng tín
dụng. Nhờ có thông tin tín dụng, ngân hàng mới có thể đưa ra những quyết