Tổng Quan Về Tín Dụng Của Ngân Hàng Thương Mại


Chương 2

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ HIỆU QUẢ TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

2.1. TỔNG QUAN VỀ TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

2.1.1. Khái quát về ngân hàng thương mại

NHTM là một tổ chức tín dụng kinh doanh trong trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng với hoạt động thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung cấp các dịch vụ ngân hàng khác cho khách hàng là tổ chức và cá nhân.

Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, NHTM thực hiện ba chức năng cơ bản: chức năng trung gian tín dụng; chức năng trung gian thanh toán và chức năng tạo tiền.

Với chức năng trung gian tín dụng, NHTM đi vay để cho vay. NHTM thường sử dụng nghiệp vụ huy động vốn để vay tiền. Nghiệp vụ huy động vốn là nghiệp vụ thu hút, huy động toàn bộ các nguồn tiền tệ nhàn rỗi trong nền kinh tế để tạo nguồn vốn kinh doanh cho NHTM và được phản ảnh thông qua kết cấu nguồn vốn của NHTM, bao gồm: vốn tự có và vốn huy động.

Sau khi huy động được vốn, NHTM được sử dụng một phần đem cho vay hoặc đầu tư và hoạt động này thường được gọi là nghiệp vụ sử dụng vốn. Nghiệp vụ sử dụng vốn của NHTM bao gồm các hoạt động sau:

Một là, nghiệp vụ ngân quỹ: NHTM phải giữ một lượng tiền mặt dự trữ dưới hình thức sau: Tiền mặt tại quỹ của ngân hàng, tiền gửi dự trữ bắt buộc và tiền gửi thanh toán tại NHTW, tiền gửi tại các NHTM khác, tiền mặt trong quá trình thu… nhằm đảm bảo khả năng thanh toán, đáp ứng kịp thời và đầy đủ nhu cầu rút tiền của khách hàng.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 142 trang tài liệu này.

Hai là, nghiệp vụ tín dụng: Tín dụng ngân hàng bao gồm các hình thức: cho vay, chiết khấu, bảo lãnh và cho thuê tài chính, trong đó hoạt động cho vay được xem là hoạt động sinh lợi chủ yếu của các NHTM.


Hiệu quả tín dụng của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Quảng Nam - 4

Ba là, nghiệp vụ đầu tư: Là nghiệp vụ mà NHTM dùng vốn của mình mua chứng khoán hoặc đầu tư theo dự án.

Với chức năng trung gian thanh toán, NHTM đứng ở giữa để thực hiện thanh toán tiền mua hàng hóa, dịch vụ cho các bên giao dịch. Nhờ NHTM, các bên giao dịch không phải chuyển tiền mặt trực tiếp cho nhau mà chỉ cần mở tài khoản tiền gửi tại NHTM. Thông qua các chứng từ đặc biệt do các bên giao dịch phát hành theo quy ước với NHTM như séc, ủy nhiệm thu, ủy nhiệm chi... NHTM thực hiện thanh toán bù trừ giữa các tài khoản với nhau.

NHTM thực hiện chức năng trung gian thanh toán qua nghiệp vụ trung gian thay mặt khách hàng thực hiện việc thanh toán hay các ủy thác khác để thu phí. Nghiệp vụ trung gian chủ yếu gồm: Nghiệp vụ chuyển tiền - thanh toán hộ; nghiệp vụ thu hộ; nghiệp vụ tín thác; nghiệp vụ thanh toán hộ các tổ chức tín dụng khác…

Chức năng tạo tiền của NHTM được thực hiện thông qua hành vi cấp tín dụng từ tiền gửi của khách hàng. Thực chất, các khoản tiền vay của khách hàng cũng trở lại NHTM dưới dạng tiền trong tài khoản. Nhờ các khoản tiền trong tài khoản, NHTM có thể thực hiện thanh toán cho khách hàng mà không dùng đến tiền mặt.

Ngày nay, các NHTM có vai trò vô cùng quan trong trong nền kinh tế quốc dân. Nhờ có NHTM các khoản tiền nhàn rỗi, dù nhỏ bé, được tập trung lại và phân bổ vào các lĩnh vực sản xuất cần vốn đầu tư. Ở phương diện này, các NHTM không chỉ làm cho vốn được quay vòng nhanh hơn, của cải làm ra nhiều hơn trong đơn vị thời gian mà nguồn lực cũng được phân bổ và sử dụng tốt hơn. Đặc biệt, NHTM làm cho các giao dịch hàng hóa ngày càng có thể được thực hiện với quy mô lớn, chi phí về tiền giao dịch ngày càng giảm, phương thức thanh toán thuận tiện, nhờ đó kích thích kinh tế hàng hóa phát triển, đẩy mạnh chuyên môn hóa và nâng cao năng suất lao động xã hội. Các NHTM đa năng còn cung cấp các dịch vụ tiện ích cho người dân như quản lý tài sản, tư vấn đầu tư, chuyển tiền….


Do có vai trò trung tâm trong hệ thống tài chính nên hoạt động của các NHTM không chỉ ảnh hưởng đến bản thân ngân hàng, mà ở một mức độ lớn, ảnh hưởng đến môi trường kinh tế vĩ mô, qua đó tác động đến mọi tổ chức và cá nhân khác. Chính vì thế, quản trị để NHTM không những hoạt động ổn định, mà còn có hiệu quả cao, nhất là hiệu quả trong thực hiện chức năng trung gian tài chính, là một yêu cầu sống còn của mỗi NHTM cũng như của quốc gia.

2.1.2. Khái niệm, đặc điểm của tín dụng ngân hàng thương mại

2.1.2.1. Khái niệm tín dụng ngân hàng

Về bản chất, tín dụng là một quan hệ vay mượn dựa trên sự tin cậy. Nguyên thủy, thuật ngữ tín dụng có nguồn gốc từ tiếng Latinh cổ là “Creditum”, có nghĩa là sự tin tưởng, sự tín nhiệm.

Theo C.Mác: “Tín dụng là một quá trình chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ người sở hữu sang người sử dụng, sau một thời gian nhất định thu hồi một lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu” [23].

Các nhà kinh tế học hiện đại, đã nghiên cứu và đưa ra rất nhiều định nghĩa khác nhau về tín dụng. Nhà kinh tế học A.Arerit và Ksuk định nghĩa tín dụng như sau: “Tín dụng phát sinh giữa một bên (người cho vay) trao cho bên khác (người đi vay) quyền sử dụng một số tiền nhất định, trong đó người đi vay có nhiệm vụ phải trả lại số tiền vay đó đúng hạn quy định. Để có quyền sử dụng tư bản đó bên đi vay phải trả một khoản bồi thường, tức là lợi tức ”. Theo Opst và Khimt Nher, đặc trưng của quan hệ tín dụng là “người cho vay thực hiện ngay nghĩa vụ của mình nhưng chỉ nhận được quyền lợi trong tương lai xa hơn. Những rủi ro đặc biệt của hành động tín dụng chủ yếu xuất phát từ đó” [77]. Theo hai cách định nghĩa này, tín dụng được hiểu là quan hệ nhường quyền sử dụng tiền trong hiện tại để đổi lấy quyền hưởng lợi tức trong tương lai. Ở đây, tính chất sinh lời và rủi ro của hoạt động tín dụng được nhấn mạnh.

Cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường, các quan hệ tín dụng được mở rộng sang một số lĩnh vực kinh tế phức tạp như: tín dụng hàng hóa


(bán chịu hàng hóa, thu tiền sau), cho vay dưới nhiều hình thức, chiết khấu, bảo lãnh, ký thác…Trong mỗi quan hệ tín dụng nêu trên, các chủ thể quan hệ thường phải tuân thủ một số cam kết như: điều kiện trao hàng hóa hay tiền bạc; kỳ hạn được sử dụng hàng hóa, tiền bạc đó; thời điểm sẽ phải hoàn lại tiền bạc hay hàng hóa với những điều kiện cam kết nhất định.

Quá trình thực hiện tín dụng thực chất không chỉ chứa đựng hai quá trình riêng biệt cho vay và hoàn trả mà còn bao gồm cả quá trình sử dụng tiền vay được thực hiện trong lĩnh vực sản xuất và kinh doanh hàng hóa. Như vậy, quy trình tín dụng được thực hiện theo chu kỳ sau: cho vay, sử dụng vốn và hoàn trả. Trong quá trình sử dụng, nếu bên vay gặp sự cố không thu hồi được vốn thì bên cho vay có thể phải gánh chịu một phần hậu quả theo quy định của pháp luật về phá sản, giải thể hoặc xử lý nợ tại tòa án…

Dưới góc độ hẹp của tài chính ngân hàng, tín dụng được hiểu như sau:

- Xét trên góc độ chuyển dịch tiền từ chủ thể có tiền nhàn rỗi sang chủ thể thiếu hụt tiền cho nhu cầu sử dụng thì tín dụng được coi là kênh chuyển tiền từ người cho vay sang người đi vay.

- Trong quan hệ tài chính cụ thể, tín dụng là một giao dịch về quyền sử dụng tài sản trên cơ sở cam kết nhường quyền sử dụng có kỳ hạn đi đôi với nghĩa vụ hoàn trả cả vốn và lãi.

- Trong lĩnh vực ngân hàng, tín dụng còn có nghĩa là hoạt động cho vay

của ngân hàng, độc lập tương đối với hoạt động huy động vốn.

Từ những phân tích nêu trên, phù hợp với thông lệ của ngành ngân hàng coi tín dụng là hoạt động cho vay, có thể hiểu tín dụng là hoạt động cho vay thông qua việc chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ NHTM sang người vay - khách hàng trên cơ sở hợp đồng tín dụng với cam kết bảo đảm bằng tài sản hoặc uy tín của người đi vay, có phương án sản xuất kinh doanh hiệu quả được NHTM chấp nhận theo kỳ hạn và lãi suất thỏa thuận giữa NHTM và người vay.

Theo cách hiểu này, tín dụng là hoạt động cho khách hàng vay của NHTM. Hoạt động cho vay này phải tuân thủ các yêu cầu sau:


- Phù hợp với tôn chỉ, chức năng, nhiệm vụ của NHTM.

- Khách hàng phải đảm bảo sự tin tưởng của NHTM trên các giác độ: có uy tín trong bảng xếp lại tín nhiệm khách hàng; có dự án hoặc kế hoạch đầu tư đã được NHTM thẩm định là hiệu quả, có khả năng thu hồi vốn và trả lãi.

- Quan hệ tín dụng phải được thể chế hóa bằng hợp đồng tín dụng với

các cam kết của hai bên được ghi rõ ràng và được pháp luật bảo hộ.

- Quy mô, kỳ hạn và lãi suất khoản vay do hai bên thỏa thuận và xác định

trong hợp đồng không được trái với quy định của pháp luật và của NHNN.

2.1.2.2. Phân loại tín dụng ngân hàng

Cùng với sự phát triển ngày càng tinh vi, sâu sắc với quy mô rộng lớn của kinh tế thị trường các hình thức kinh doanh ngân hàng nói chung, hình thức tín dụng nói riêng cũng phát triển hết sức đa dạng và phong phú nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của khách hàng, trên cơ sở đó đa dạng hoá các danh mục đầu tư, thu hút khách hàng, tăng lợi nhuận, thực hiện phân tán rủi ro và củng cố sức mạnh cạnh tranh.

Có thể phân loại các hình thức tín dụng ngân hàng theo nhiều cách

khác nhau.

Một là, phân loại dựa trên nghiệp vụ ngân hàng. Theo cách này NHTM có một số loại hình tín dụng chủ yếu sau:

- Cho vay ứng trước: Là hình thức cho vay trong đó ngân hàng cung cấp cho người đi vay một khoản tiền nhất định để sử dụng trước. Người đi vay chỉ phải trả lãi vào lúc hoàn trả vốn gốc, có hai loại cho vay ứng trước: cho vay ứng trước có bảo đảm và cho vay ứng trước không có bảo đảm.

- Cho vay theo hạn mức: Là hình thức cho vay trong đó ngân hàng và khách hàng thỏa thuận trước số tiền tối đa (gọi là hạn mức tín dụng) mà khách hàng được vay từ ngân hàng trong một khoản thời gian nhất định (thường là 12 tháng). Sau khi đã thỏa thuận về hạn mức tín dụng, khách hàng có thể nhận nợ làm nhiều lần mà không phải làm đơn xin vay với điều kiện tổng số tiền nhận nợ không vượt quá hạn mức tín dụng đã được ký kết.


- Cho vay thấu chi: Là hình thức cấp tín dụng ứng trước đặc biệt trong đó ngân hàng cho phép khách hàng chi vượt quá số dư trên tài khoản vãng lai trong một hạn mức và thời hạn nhất định trên cơ sở hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng đã được ký kết. Mức tín dụng trong cho vay thấu chi chưa phải là khoản tiền cho vay mà chỉ khi nào khách hàng sử dụng thấu chi thì mới được coi là tín dụng được cấp phát và bắt đầu tính tiền lãi.

- Cho vay chiết khấu: Là cho vay dưới hình thức NHTM mua lại các thương phiếu chưa đến hạn trả tiền với giá thấp hơn số tiền ghi trên thương phiếu. Khi đến hạn, ngân hàng sẽ đòi toàn bộ số tiền ghi trên thương phiếu ở người trả tiền thương phiếu. Phần lãi của ngân hàng chính là chênh lệch giữa giá mua và số tiền ghi trên thương phiếu.

- Tín dụng ủy thác thu hay bao thanh toán (Factoring): Là nghiệp vụ trong đó công ty con của ngân hàng cam kết mua lại các khoản thanh toán chưa tới hạn phát sinh từ những hoạt động xuất khẩu, cung ứng hàng hóa và dịch vụ với giá chiết khấu. Các khoản nợ này thường là ngắn hạn (từ 30 đến 120 ngày).

- Tín dụng thuê mua (Leasing): Là hình thức tín dụng trung, dài hạn được thực hiện thông qua cho thuê tài sản như máy móc, thiết bị, các động sản và bất động sản khác theo yêu cầu khách hàng và nắm giữ quyền sở hữu tài sản cho thuê. Bên thuê sử dụng tài sản thuê và thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê đã được hai bên thỏa thuận và không được hủy bỏ hợp đồng trước hạn. Khi hết thời hạn thuê, bên thuê được chuyển quyền sở hữu, mua lại hoặc tiếp tục thuê tài sản đó tùy theo các điều khoản đã thỏa thuận trong hợp đồng thuê.

- Tín dụng bảo lãnh: Là hình thức tín dụng ngân hàng không trực tiếp cho khách hàng vay bằng tiền mà bằng uy tín của ngân hàng thông qua việc phát hành chứng thư bảo lãnh, ngân hàng cam kết thực hiện một nghĩa vụ trong tương lai đối với người thụ hưởng bảo lãnh. Khi đến hạn, nếu người được bảo lãnh không có khả năng thực hiện cam kết thì NHTM bảo lãnh buộc phải thực hiện cam kết đã thỏa thuận.


Hai là, phân loại theo thời hạn tín dụng. Theo cách phân loại này, tín dụng ngân hàng có các loại tín dụng ngắn hạn, trung hạn và dài hạn.

Tín dụng ngắn hạn: là hoạt động cho vay có thời hạn không quá 12 tháng. Tín dụng ngắn hạn thường được khách hàng sử dụng nhằm bổ sung vốn lưu động và trang trải các nhu cầu thiếu hụt vốn tạm thời.

Tín dụng trung hạn: là hoạt động cho vay có thời hạn từ một năm đến 5 năm. Mục đích của loại hình tín dụng này là khách hàng muốn huy động vốn để đầu tư, cải tạo tài sản cố định, trang trải các nhu cầu mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị công nghệ, xây dựng các dự án mới có quy mô nhỏ và thời hạn thu hồi vốn nhanh.

Tín dụng dài hạn: có thời gian trên 5 năm. Mục đích của loại hình tín dụng này là tài trợ các dự án lớn có thời gian thu hồi vốn lâu dài.

Ba là, phân loại theo hình thức bảo đảm tiền vay. Theo cách phân loại này, có các loại hình tín dụng có tài sản đảm bảo và tín dụng không có tài sản đảm bảo:

Tín dụng có bảo đảm bằng tài sản: Là loại tín dụng dựa trên cơ sở các tài sản bảo đảm tiền vay như thế chấp, cầm cố tài sản hợp pháp của khách hàng hoặc bảo đảm bằng tài sản của bên thứ ba có cam kết. Sự bảo đảm bằng tài sản là căn cứ pháp lý để ngân hàng có nguồn thu nhập khác trong trường hợp khách hàng không trả nợ vay thông qua hình thức phát mãi tài sản thế chấp, cầm cố.

Tín dụng không có bảo đảm bằng tài sản: Là loại tín dụng không có tài sản thế chấp, cầm cố mà việc cho vay của ngân hàng chỉ dựa vào uy tín, năng lực tài chính của khách hàng. Muốn hưởng loại hình tín dụng này khách hàng phải hội đủ các điều kiện sau:

+ Có uy tín, được ngân hàng tín nhiệm trong việc sử dụng đúng mục đích

vốn vay, thực hiện nghĩa vụ trả nợ vay đúng hạn cả gốc lẫn lãi trong quá khứ.

+ Có dự án, phương án sản xuất kinh doanh, dịch vụ khả thi, có khả năng

hoàn trả nợ và lãi vay, phương án, dự án phải phù hợp với quy định của pháp luật.


+ Có khả năng tài chính để thực hiện nghĩa vụ trả nợ vay đúng hạn.

Bốn là, phân loại theo mục đích sử dụng vốn. Theo cách phân loại này, có các loại hình tín dụng bất động sản, tín dụng công thương nghiệp, tín dụng nông nghiệp và tín dụng tiêu dùng:

Tín dụng bất động sản: là loại tín dụng liên quan đến việc cho vay mua sắm và xây dựng bất động sản nhà ở, đất đai, bất động sản trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ.

Tín dụng công thương nghiệp: là loại cho vay ngắn hạn để bổ sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ.

Tín dụng nông nghiệp: là loại cho vay để trang trải các chi phí sản xuất như phân bón, thuốc trừ sâu, giống cây trồng, thức ăn gia súc, lao động, nhiên liệu…

Tín dụng tiêu dùng: là loại cho vay để đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng như mua sắm các vật dụng đắt tiền. Ngày nay ngân hàng còn thực hiện các khoản cho vay để trang trải các chi phí thông thường của đời sống thông qua phát hành thẻ tín dụng.

Năm là, phân loại theo hình thái giá trị của tín dụng. Theo cách phân loại này có các loại hình tín dụng bằng tiền, tín dụng bằng tài sản.

Cấp tín dụng bằng tiền: là loại cấp tín dụng mà hình thái giá trị của tín dụng được thể hiện bằng tiền. Đây là loại cấp tín dụng chủ yếu của các ngân hàng và việc thực hiện bằng các kỹ thuật khác nhau như tín dụng ứng trước, thấu chi, tín dụng thời vụ, tín dụng trả góp…

Cấp tín dụng bằng tài sản: là hình thức cấp tín dụng bằng hàng hóa vật chất. Cấp tín dụng bằng tài sản rất phổ biến và đa dạng. Các NHTM thường áp dụng tín dụng bằng tài sản dưới hình thức tài trợ thuê mua. Theo phương thức này NHTM cung cấp trực tiếp tài sản cho người đi vay (thường được gọi là người đi thuê) và theo định kỳ người đi thuê hoàn trả nợ vay bao gồm cả vốn và lãi.


Sáu là, phân loại theo phương thức hoàn trả nợ vay. Theo cách này có loại hình tín dụng trả góp, tín dụng trả một lần cuối kỳ, tín dụng hoàn trả theo yêu cầu.

Tín dụng trả góp: là loại tín dụng mà khách hàng phải hoàn trả vốn gốc và lãi theo định kỳ. Loại tín dụng này thường áp dụng cho vay bất động sản, nhà ở, cho vay tiêu dùng, cho vay đối với những người kinh doanh nhỏ, cho vay trang bị kỹ thuật nông nghiệp.

Tín dụng hoàn trả một lần cuối kỳ: là loại cho vay thanh toán một lần

cả gốc và lãi theo thỏa thuận trong hợp đồng.

Tín dụng hoàn trả theo yêu cầu là loại hình tín dụng áp dụng kỹ thuật

thấu chi theo chính sách tín dụng cho từng trường hợp cụ thể.

Bảy là, phân loại tín dụng theo xuất xứ. Theo cách này có các loại tín dụng trực tiếp, gián tiếp.

Tín dụng trực tiếp: là loại hình tín dụng trong đó ngân hàng cấp vốn trực tiếp cho người có nhu cầu, đồng thời người đi vay trực tiếp hoàn trả nợ vay cho ngân hàng.

Tín dụng gián tiếp: là loại hình tín dụng trong đó ngân hàng cho vay thông qua việc mua lại các khế ước hoặc chứng từ đã phát sinh còn trong thời hạn thanh toán.

2.1.2.3. Đặc điểm của tín dụng ngân hàng thương mại

Khác với các loại hình tín dụng khác, tín dụng ngân hàng mang một số đặc trưng sau đây:

Thứ nhất, tín dụng ngân hàng là phương thức kinh doanh chính của ngân hàng. Nếu trong các quan hệ tín dụng khác, ví dụ tín dụng hàng hóa, người tham gia hoạt động tín dụng chỉ coi đó một hành vi phụ thêm phục vụ hoạt động kinh doanh chính của họ nên lãi suất không phải là mối quan tâm hàng đầu. Trong khi đó, đối với ngân hàng, vấn đề lãi suất lại rất được chú trọng do đó là giá cả dịch vụ ngân hàng, là yếu tố quyết định lợi nhuận và sức cạnh tranh của ngân hàng. Chính vì vậy, các NHTM thường đặt chính sách lãi suất là trọng tâm trong chiến lược kinh doanh.


Thứ hai, tín dụng ngân hàng là hành vi ngân hàng bán quyền sử dụng tài sản có thời hạn cho khách hàng. Muốn có hàng để bán, thay vì sản xuất, NHTM phải đi vay để cho vay, vì thế các khoản tín dụng của ngân hàng đều phải hoạch định thời hạn, lãi suất một cách khoa học, hợp lý để ngân hàng có thể chủ động hoàn trả vốn huy động và không để ứ vốn để chịu lãi khống. Chính vì thế, khi xác định thời hạn cho vay hợp lý, ngân hàng phải căn cứ vào tính chất thời hạn nguồn vốn của mình và quá trình sử dụng vốn của đối tượng vay. Nếu ngân hàng có nguồn vốn dài hạn ổn định thì có thể cấp được các khoản tín dụng dài hạn. Ngược lại, nếu nguồn vốn của ngân hàng không ổn định và phải bù đắp bằng các khoản vốn huy động có kỳ hạn ngắn thì khả năng cấp tín dụng dài hạn là khó khăn.

Mặt khác, thời hạn cho vay phải phù hợp với chu kỳ luân chuyển vốn của đối tượng vay thì người vay mới có điều kiện trả nợ đúng hạn. Nếu ngân hàng xác định thời hạn vay nhỏ hơn chu kỳ luân chuyển vốn của đối tượng vay thì khách hàng không có đủ nguồn để trả nợ khi đến hạn, gây khó khăn cho khách hàng. Ngược lại, nếu thời hạn cho vay lớn hơn chu kỳ luân chuyển vốn sẽ tạo điều kiện cho khách hàng sử dụng vốn vay không đúng mục đích, tiềm ẩn rủi ro tín dụng cho ngân hàng.

Thứ ba, tín dụng ngân hàng chịu sự điều tiết của chính sách tiền tệ quốc gia. Đôi khi, để ổn định vĩ mô nền kinh tế, NHNN đưa ra các chính sách can thiệp vào quy mô, hạn mức, lãi suất tín dụng theo chiều hướng bất lợi cho NHTM, nhưng NHTM vẫn phải chấp hành. Đặc biệt, vào thời điểm kinh tế tăng trưởng nóng, khách hàng khát vốn, lãi suất họ có thể chấp nhận chênh lệch so với lãi suất huy động lớn, nhưng NHTM không thể cho vay vượt quá quy định của NHNN. Hoặc trong điều kiện lạm phát, để huy động được vốn, NHTM phải đưa ra lãi suất thực dương đồng thời phải đáp ứng yêu cầu dự trữ cao của NHNN nên khó cho vay, nguy cơ thua lỗ lớn.

Thứ tư, tín dụng ngân hàng là hoạt động tiềm ẩn rủi ro rất cao. Khoản

tiền mà ngân hàng cho vay là rất lớn so với khoản lãi thu về. Trong khi đó,


việc có thu hồi được vốn hay không lại không những phụ thuộc vào bản thân khách hàng mà còn chịu ảnh hưởng của môi trường kinh doanh, biến động thị trường thế giới, thiên tai ngoài tầm kiểm soát của cả khách hàng lẫn ngân hàng. Khi khách hàng gặp khó khăn, khi môi trường kinh doanh không thuận lợi hoạt động tín dụng của ngân hàng cũng khó khăn theo. Trong trường hợp khách hàng phá sản, thiên tai, khủng hoảng kinh tế,… ngân hàng có thể lâm vào tình trạng mất vốn, nợ khó đòi lớn ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng.

Thứ năm, tín dụng ngân hàng phải tuân thủ các quy định pháp lý chặt chẽ của cả nhà nước lẫn cam kết trong hợp đồng. Quá trình xin vay và cho vay phải tuân thủ những quy định pháp lý dân sự và tín dụng chặt chẽ như: phải vay theo Hợp đồng tín dụng, khế ước vay tiền, hợp đồng bảo đảm tiền vay, bảo lãnh,…, trong đó nhà nước cam kết bảo hộ quyền tài sản của các bên giao dịch theo luật thông qua xét xử của toàn án hoặc trọng tài, người đi vay phải cam kết hoàn trả vô điều kiện khoản vay cho ngân hàng khi đến hạn, các quy định về xử lý tài chính khi bên đi vay không có khả năng trả nợ đến hạn…

Đối với NHTM hoạt động trong lĩnh vực nông nghiêp, nông thôn, hoạt động tín dụng ngoài các đặc điểm chung của NHTM, còn có các đặc điểm riêng. Một là, đối tượng khách hàng cho vay trong lĩnh vực nông nghiệp,

nông thôn chủ yếu vay các món vay có giá trị nhỏ so với các lĩnh vực khác. Ở các quốc gia nông nghiệp, số lượng khách hàng có nhu cầu vay thường đông hơn các lĩnh vực khác. Tuy nhiên, do thu nhập cũng như điều kiện kinh tế ở khu vực nông thôn và người hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp thấp do đó thường không có tài sản thế chấp cho các khoản vay, hoặc nếu có thì giá trị của tài sản thế chấp thường rất nhỏ. Thực tế này ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả tín dụng của ngân hàng khi cho vay đối với các đối tượng này.

Hai là, rủi ro đối với hoạt động tín dụng dành cho nông nghiệp, nông thôn thường cao hơn các khu vực khác do lĩnh vực nông nghiệp là lĩnh vực có nhiều rủi ro do thiên tai, thời tiết, dịch bệnh…Những rủi ro này ảnh hưởng


đến khả năng trả nợ của người vay vốn, từ đó dễ dẫn đến hình thành các khoản nợ xấu, ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả tín dụng của ngân hàng.

2.1.3. Vai trò của tín dụng ngân hàng thương mại

Trong nền kinh tế thị trường, tín dụng ngân hàng có ba vai trò cơ bản sau:

Một là tập trung và phân bổ vốn tiền tệ trên cơ sở cho vay và hoàn trả.

Tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ là hai quá trình thống nhất trong sự vận hành của hệ thống tín dụng. Ở đây, sự có mặt của tín dụng được xem như chiếc cầu nối giữa các nguồn cung - cầu về vốn tiền tệ.

Nhờ hoạt động tín dụng, NHTM mới có nhu cầu huy động mọi nguồn tiền nhàn rỗi trong dân cư để làm vốn cho vay. Bỏ tiền vào NHTM, người có tiền nhàn rỗi vừa được hưởng một khoản tiền lãi thích hợp mà không phải quản lý tài sản như khi đầu tư, đồng thời lại có thể được hưởng các tiện ích ngân hàng khác như chuyển tiền, bảo vệ tài sản, thanh toán…

Khách hàng vay vốn tại NHTM có điều kiện đầu tư kiếm lời trong điều kiện không có đủ nguồn lực tài chính riêng để đầu tư. Nhờ có sự tiếp sức của tín dụng ngân hàng, nguồn vốn vật chất (máy móc, nguyên vật liệu đã được sản xuất nằm trong kho của các doanh nghiệp) của xã hội được đưa vào vòng luân chuyển tái sản xuất liên tục, qua đó tạo ra nhiều của cải hơn cho xã hội, tạo điều kiện cải thiện điều kiện sống của dân cư. Trên phương diện này, tín dụng đóng vai trò nâng cao hiệu quả chung của nền kinh tế.

Thông qua tín dụng tiêu dùng, NHTM góp phần điều tiết cung cầu trên thị trường hàng hóa dịch vụ, hỗ trợ các tổ chức kinh tế và gia đình khắc phục các khó khăn do dòng thu nhập và dòng chi tiêu của họ không khớp nhau, nhất là các doanh nghiệp. Nói cách khác, nhờ sự điều tiết của tín dụng ngân hàng, các chủ thể kinh tế có thể tiến hành hoạt động sản xuất và tiêu dùng ngay cả khi các khoản thu chi của họ không khớp nhau về thời gian.

Hai là tín dụng ngân hàng góp phần tiết kiệm chi phí tiền mặt và chi

phí lưu thông cho xã hội.

Hoạt động tín dụng ngân hàng góp phần vào tiết kiệm tiền mặt và chi phí lưu thông cho xã hội ở những công đoạn sau:

Xem tất cả 142 trang.

Ngày đăng: 21/04/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí