Hiệu quả tín dụng của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Quảng Nam - 2


lường rủi ro tín dụng như phương pháp chuẩn hóa đơn giản (SSA), phương pháp chuẩn hóa (SA), phương pháp dựa vào hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ (IRB) cơ bản và nâng cao… Basel II gợi ý quy trình và công cụ quản lý rủi ro tín dụng như: nhận biết rủi ro thông qua hệ thống các dấu hiệu tài chính, phi tài chính và hệ thống xếp hạng nội bộ; đo lường rủi ro thông qua mô hình giá trị chịu rủi ro tín dụng (VAR); quản lý rủi ro thông qua chính sách tín dụng; quản lý danh mục cho vay và phát sinh tín dụng.

- Glen Bullivant trong "Credit Management" [86] đã trình bày bao quát các khía cạnh của quản lý tín dụng. Nội dung trọng tâm, xuyên suốt mà tác giả đưa ra là vấn đề dòng tiền, quản lý dòng tiền, vấn đề về lợi nhuận có thể được cải thiện, nâng cao bằng nhiều kế hoạch tương thích. Tất cả các vấn đề kiểm soát tín dụng quan trọng được đề cập một cách chi tiết, bao gồm cả hướng dẫn về chính sách tín dụng và quản lý các chức năng tín dụng, điều kiện tín dụng, đánh giá rủi ro, quản lý và mô hình hóa, thu hồi nợ, bảo hiểm tín dụng, tín dụng xuất khẩu, tín dụng tiêu dùng, luật tín dụng thương mại và các dịch vụ tín dụng.

- Các tác giả Stephan Cowan, Glen Bullivant, Robert addlestone trong "Effective credit control & debt recovery handbook - Tottel Publisher" [106] đã chỉ ra rằng, quản lý tín dụng lỏng lẻo và nợ xấu thường là nguyên nhân tự làm suy yếu các NHTM đang thành công. Vì thế, điều quan trọng, theo tác giả, là phải đảm bảo có được một hệ thống giữ cho mức rủi ro tín dụng luôn thấp nhất, đồng thời nắm rõ thủ tục thu hồi nợ trong trường hợp không được thanh toán. Cuốn sách này cập nhập hầu hết các vấn đề pháp lý mới nhất đồng thời cung cấp thông tin thực tế về mọi khía cạnh của kiểm soát tín dụng và thu hồi nợ bao gồm: Chỉ dẫn tín dụng đối với khách hàng mới; thực hiện tín dụng đối với khách hàng mới, những thay đổi đối với luật thu hồi nợ, ban hành luật bảo vệ số liệu, giải quyết việc nâng hạn mức tín dụng cho các công ty nhỏ, làm thế nào để đưa ra một chính sách tín dụng, các điều khoản thanh toán, thu hút các khách hàng lớn, thủ tục đối với các doanh nghiệp không trả nợ hoặc phá sản, doanh nghiệp & chế tài tín dụng và hiệu lực của chế tài bảo vệ thông tin.


- Các tác giả Sam N. Basu, Harold L. Rolfes Jr trong “Trategic credit management” [107] đã đề ra giải pháp quản lý chiến lược tín dụng, coi đó thực sự là một công cụ hiệu lực, sát thực tế và đáp ứng được nhu cầu thực tiễn để giúp NHTM tồn tại và phát triển trong môi trường cho vay (cấp tín dụng) vốn rất phức tạp hiện nay. Các tác giả đã kết hợp phương pháp học thuật và phương pháp kiểm nghiệm qua thực tế để bàn về vấn đề ngân hàng nói chung và tín dụng ngân hàng nói riêng. Các tác giả cho rằng, ngành ngân hàng đã trải qua nhiều thay đổi lớn trong những năm qua và đưa ra nhận định xu hướng này sẽ còn tiếp diễn trong một tương lai gần. Các tác giả đã đưa ra những hướng dẫn và lời khuyên dựa trên sự kết hợp giữa phân tích lý thuyết và thực nghiệm. Một là, kiểm tra, phân tích độ sâu của toàn bộ lĩnh vực quản lý tín dụng dưới góc độ của những thay đổi diễn ra suốt từ khi bắt đầu thời kỳ suy thoái vào đầu những năm 80 thể kỷ XX. Hai là, xác nhận rõ những căn nguyên gốc rễ mang tính hệ thống dẫn đến hầu hết các thất bại trong công tác quản lý tín dụng. Ba là, đưa ra một số những hướng dẫn rõ ràng về cách tái khởi động quy trình quản lý tín dụng với một chiến lược cụ thể. Bốn là, đưa ra những chiến lược đã được kiểm chứng và những kỹ thuật định lượng sắc sảo giúp phân tích tín dụng, quản lý tín dụng, cơ cấu nợ, nợ quá hạn và các vấn đề khác về tín dụng. Năm là, vạch ra một chương trình cụ thể, có kế hoạch chi tiết, dễ triển khai thực hiện cho việc quản lý đào tạo và đào tạo lại đội ngũ những người làm công tác tín dụng và quản lý tín dụng.

Nghiên cứu về nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận ngân hàng nói chung và lợi nhuận từ hoạt động tín dụng.

Nghiên cứu về kinh nghiệm của ngân hàng ở một số quốc gia như Mexico, Venezuela, Tây Ban Nha, Kenya, Vương quốc Anh, Thụy Điển và Na Uy, các nhà phân tích đều thống nhất rằng, sự thất bại của ngân hàng xuất hiện do sự kết hợp của nhiều yếu tố. Herrero [89] cho rằng, lợi nhuận ngân hàng thấp, lãi ròng thấp là biểu hiện của sự thất bại của ngân hàng. Ông phân loại các yếu tố này thành nhóm yếu tố thuộc về bản thân ngân hàng và yếu tố kinh tế vĩ mô. Các yếu tố bên trong ngân hàng là chất lượng tài sản, chất


lượng quản lý, thu nhập và khả năng thanh toán. Các yếu tố kinh tế vĩ mô gồm lãi suất cao, tăng trưởng kinh tế thấp, thương mại bất lợi, những cú sốc, biến động tỷ giá và nợ nước ngoài. Hooks [91] chỉ ra rằng suy giảm kinh tế như tình trạng lạm phát, lãi suất cao là nguyên nhân gây ra sự đổ vỡ của các ngân hàng. Kane và Rice [94] cho rằng sự can thiệp của chính phủ gây ra thất bại của các ngân hàng. Họ lập luận rằng khi các chính phủ can thiệp vào hoạt động của các ngân hàng, khách hàng có xu hướng dựa vào chính phủ để bảo vệ lợi ích của họ. Can thiệp này không khuyến khích các tổ chức khác, các chủ nợ và khách hàng thực hiện giám sát một cách có hiệu quả, giám sát các ngân hàng một cách độc lập. Miller [101] cho rằng các tình huống dẫn đến thất bại của các ngân hàng là tồn tại quá nhiều quy tắc nghiêm ngặt khiến cho ngân hàng không thể tuân thủ được, ngân hàng không tuân thủ pháp luật, hệ thống các quy tắc cứng nhắc có thể hạn chế các ngân hàng lựa chọn cách thức hành động hiệu quả nhất để đạt được mục tiêu. Tay [108] cho rằng, khủng hoảng ngân hàng chủ yếu xuất phát từ sự thiếu vắng những ý tưởng quản lý tốt trong quyết định quản lý. Lepus [98] thì cho rằng quản lý yếu kém, đặc biệt là chấp nhận rủi ro quá mức, là chính nguyên nhân gây ra đổ vỡ ngân hàng. Marrison [100] nói rõ rằng quản lý rủi ro tín dụng có hiệu quả làm giảm rủi ro từ sự vỡ nợ của khách hàng. Lợi thế cạnh tranh của ngân hàng chính là khả năng tạo ra và có được các khoản cho vay đem lại giá trị, lợi nhuận cho ngân hàng. Các khoản nợ xấu gây ra đổ vỡ ngân hàng. Sự thất bại của một ngân hàng được coi là kết quả của quản lý yếu kém vì ra quyết định cho vay sai, đánh giá sai về tình trạng tín dụng hoặc khả năng trả nợ, tập trung cho vay quá nhiều vào một đối tượng khách hàng nhất định. Goodhart [85] cho rằng sự yếu kém trong quản lý rủi ro tín dụng xấu như để tình trạng nợ quá hạn kéo dài quá mức cũng là nguyên nhân gây ra đổ vỡ ngân hàng. Chimerine

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 142 trang tài liệu này.

[79] đồng tình với Goodhart, ông bổ sung thêm rằng việc tiếp tục cho vay đối với các khoản vay chưa trả có khả năng dẫn tình trạng nợ chồng lên nợ. Điều này làm giảm khả năng thanh toán của các ngân hàng cũng như làm giảm khả năng tài trợ cho các hợp đồng vay tốt. Herrero [89] cho rằng trong cuộc khủng


Hiệu quả tín dụng của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Quảng Nam - 2

hoảng ngân hàng ở Venezuela, lý do dẫn đến sự thất bại Ngân hàng Latino là cho vay không đúng quy định như cho phép tài sản thế chấp sẽ được sử dụng cho nhiều khoản vay, chất lượng các khoản vay thấp và tập trung cho vay trong một lĩnh vực. De Juan [81] lập luận rằng ngân hàng ở Tây Ban Nha thất bại là do quản lý rủi ro kém đặc biệt là rủi ro tín dụng, chẳng hạn danh mục cho vay của các ngân hàng ở nước này tập trung vào cho vay các đối tượng có quan hệ với chính ngân hàng về vốn, hoặc sở hữu, nói cách khác là cho vay các đối tượng có quan hệ sở hữu đan chéo với chính ngân hàng. Theo Gil- Diaz [84], lạm phát cao và lãi suất cao gây ra sự gia tăng gánh nặng trả nợ đối với các khoản vay trong và ngoài nước, làm giảm vốn của các ngân hàng. Gil- Diaz khẳng định rằng sự yếu kém trong sàng lọc khách hàng vay, gia tăng quá mức khối lượng tín dụng và suy thoái kinh tế trong năm 1993 tại Mexico đã biến các khoản nợ trở thành gánh nặng quá lớn. Như vậy các khoản nợ xấu bắt đầu tăng rất nhanh, khách hàng vay không có khả năng trả nợ. Hussey

[92] cho rằng, cho vay theo định hướng mang tính chính trị cũng là nguyên nhân dẫn đến thất bại của ngân hàng như đã xảy ra ở Philippines trong những năm 1980.Trong nhiều trường hợp chính phủ chỉ đạo các ngân hàng trực tiếp để cung cấp cho các khoản vay cho một số khách hàng vay, do đó các ngân hàng cho vay mà không dựa trên cơ sở đánh giá đầy đủ về khả năng trả nợ của khách hàng. Nếu không thể đo lường rủi ro tín dụng sẽ không thể quản lý được rủi ro. Chính vì thế đo lường rủi ro tín dụng là tối quan trọng trong quản lý rủi ro tín dụng. Davies và Kearns [80] nhấn mạnh rằng các tổ chức cần phải có quy trình, thủ tục rõ ràng để đo lường rủi ro tín dụng cũng như tiếp xúc với các bên có liên quan, sản phẩm, khách hàng và các lĩnh vực kinh tế.

Năm 2008, sau sự sụp đổ của một loạt các ngân hàng lớn ở Mỹ, khởi nguồn cho cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, KPMG đã tiến hành khảo sát và công bố kết quả nghiên cứu “Never again? Risk management in banking beyond the credit crisis”. Cuộc khảo sát được tiến hành với 500 lãnh đạo cấp cao của các ngân hàng trên khắp thế giới để tìm ra điểm yếu trong hệ thống quản lý rủi ro tín dụng hiện tại, từ đó đưa ra các biện pháp để ngăn ngừa,


tránh tái diễn khủng hoảng. Khảo sát đã tiến hành nghiên cứu về hiệu quả của các cơ chế quản trị rủi ro hiện tại, văn hóa quản trị rủi ro trong doanh nghiệp, thực hiện chức năng quản trị rủi ro, mức độ chuyên môn hoá quản lý rủi ro, chính sách tạo động lực, khuyến khích để nâng cao hiệu quả quản lý rủi ro, cách thức đo lường và báo cáo về rủi ro. Cuộc khủng hoảng tài chính đã hối thúc các ngân hàng toàn cầu phải có cái nhìn nghiêm túc, toàn diện hơn về quản lý rủi ro tín dụng trong ngân hàng. Cuộc khủng hoảng cũng đã chỉ ra lỗ hổng, điểm yếu trong quản lý rủi ro tín dụng của hệ thống tài chính toàn cầu. Nghiên cứu này đã chỉ ra các nguyên nhân chính dẫn tới rủi ro tín dụng đó là thiếu động lực và ưu đãi không tương xứng đối với công việc quản lý rủi ro, quản trị rủi ro kém, không hình thành văn hoá quản trị rủi ro trong doanh nghiệp, thiếu các biện pháp đo lường và báo cáo về rủi ro một cách hiệu quả, thiếu giám sát rủi ro, thiếu quan tâm đến quản trị rủi ro của quản lý cấp cao, chất lượng của số liệu, mô hình cảnh báo rủi ro thấp, người làm công tác quản lý rủi ro thiếu kinh nghiệm, thông tin và truyền thông trong nội bộ ngân hàng yếu. Nghiên cứu đã chỉ ra 5 lưu ý về quản lý rủi ro tín dụng đối với các ngân hàng toàn cầu. Một là, tăng cường quản trị rủi ro và hình thành văn hoá quản lý rủi ro trong doanh nghiệp. Bằng cách thiết lập một khung khổ quản lý doanh nghiệp thích hợp trong đó rủi ro có thể được đo lường, báo cáo và quản lý, các ngân hàng có thể tạo ra một hệ thống đơn giản kết hợp ba yếu tố thiết yếu của một cơ chế quản lý rủi ro hiệu quả: quản trị, báo cáo và dữ liệu, và các quy trình và hệ thống. Ngay từ đầu, doanh nghiệp và lãnh đạo doanh nghiệp cần phải hình thành triết lý rủi ro và văn hóa quản lý rủi ro trong toàn tổ chức. Với mỗi nhân viên cần nhận thức đầy đủ, xác định được rủi ro của tổ chức và tác động của nó đối với việc ra quyết định. Hai là, những nhân viên làm nhiệm vụ quản lý rủi ro cần phải xây dựng mối quan hệ mạnh mẽ hơn với tất cả các cấp của tổ chức, như Hội đồng quản trị, ban kiểm toán và kiểm toán nội bộ. Ba là, nâng cao năng lực quản lý rủi ro ở cấp cao. Các ngân hàng cần tìm cách để có được công nghệ quản lý rủi ro tốt hơn trong ban điều hành doanh nghiệp để từ đó cung cấp cho lãnh đạo doanh nghiệp các thách thức,


cung cấp thông tin để ra được quyết định kinh doanh đúng đắn. Bốn là, xây dựng mô hình quản lý rủi ro. Mô hình quản lý rủi ro hiệu quả cơ bản sẽ góp phần đưa ra các quyết định quản lý tốt. Mô hình dựa trên hệ thống các dữ liệu định lượng thích hợp được trình bày một cách rõ ràng, định dạng đơn giản để Hội đồng quản trị và các bên liên quan khác có thể hiểu được. Mô hình rủi ro không nên quá phụ thuộc vào các dữ liệu lịch sử mà cần phải linh hoạt để thích ứng với điều kiện thị trường thay đổi. Năm là, tạo ra động lực khuyến khích. Người quản lý rủi ro cần thúc đẩy để hình thành cơ chế tạo động lực cho nhân viên với các ưu đãi dựa trên trên hiệu suất làm việc và phù hợp với lợi ích của cổ đông và dài hạn, lợi nhuận toàn tổ chức.

1.1.1.2. Những nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả tín dụng của ngân hàng thương mại

Trong vài thập kỷ gần đây, các viện nghiên cứu ngân hàng và các cơ sở nghiên cứu khác đã tiến hành nhiều công trình nghiên cứu về quản trị một cách hiệu quả hoạt động tín dụng của các NHTM.

Felicia Omowunmi Olokoyo trong “Determinants of Commercial Banks’ Lending Behavior in Nigeria” [78] đã chỉ ra các nhân tố tác động đến hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại ở Nigeria. Bằng cách sử dụng mô hình Var với nguồn dữ liệu từ 89 ngân hàng trong giai đoạn 1980 - 2005, tác giả đã nghiên cứu tác động của các biến số vi mô cũng như vĩ mô tới hoạt động tín dụng của hệ thống NHTM tại Nigeria. Các biến vi mô được nghiên cứu bao gồm: khối lượng tín dụng, danh mục đầu tư, lãi suất, dự trữ tiền mặt bắt buộc, tỷ lệ thanh khoản. Các biến vĩ mô gồm: GDP và tỷ giá. Các yếu tố khác không đưa vào mô hình là công cụ chính sách để điều tiết hoạt động ngân hàng và mối quan hệ trước với khách hàng. Các yếu tố không được đưa vào mô hình này sẽ được đưa vào phần sai số của mô hình.

LOA = f (Vd, IP, Ir, Rr, Lr, Fx, GDP, Z) (1)

Trong đó: Z chứa các biến khác không được đưa vào mô hình

Mô hình các nhân tố tác động tới tăng trưởng tín dụng của Nigeria có dạng:

LOA = α0 + α1Vd + α2Ip + α3Ir + α4Rr + α5Lr + α6Fx + α7GDP + µ


Trong đó: LOA: Các khoản cho vay và ứng trước, Vd: Khối lượng tiền gửi, Ip: Danh mục đầu tư, Ir: Lãi suất (lãi suất cho vay). Rr: Tỷ lệ dự trữ bắt buộc, Lr: Tỷ lệ thanh khoản, Fx: Trung bình tỷ giá chính thức hàng năm đô la Nigenia/USD do NHTW công bố, GDP: Tổng sản phẩm trong nước theo giá thị trường hiện tại.

Kết quả mô hình chỉ ra lượng tiền gửi và danh mục đầu tư của các ngân hàng ảnh hưởng đáng kể tới khả năng cho vay của hệ thống ngân hàng. Chỉ cần gia tăng 1% trong khối lượng tiền gửi và mức độ đầu tư trong danh mục cho vay sẽ dẫn đến sự gia tăng 6,8% đối với các khoản cho vay và 3,18% đối với các khoản ứng trước.

Tương tự, mô hình cũng chỉ ra tỷ giá và GDP có quan hệ cùng chiều với khối lượng tín dụng, tức là khi tỷ giá và GDP tăng lên sẽ tác động làm cho các hệ thống ngân hàng tăng cho vay nền kinh tế.

Mặc dù hệ số của các biến lãi suất, tỷ lệ dự trữ bắt buộc và tỷ lệ thanh khoản được cho là sẽ có tác động làm giảm tăng trưởng tín dụng. Tuy nhiên, mô hình lại cho thấy một kết quả ngược lại khi mà các hệ số hồi quy cho thấy mỗi một phần trăm tăng lãi suất cho vay, tỷ lệ dự trữ bắt buộc và tỷ lệ thanh khoản tiền mặt của các ngân hàng thương mại sẽ làm cho khối lượng tín dụng tăng 0,9%; 0,12% và 0,04% tương ứng. Điều này có thể được lý giải là do các ngân hàng Nigeria có thị phần áp đảo trên thị trường tín dụng khiến cho các tổ chức tài chính khác rất khó cạnh tranh. Ngoài ra, hiện tượng khối lượng tín dụng vẫn tăng khi lãi suất cho vay, tỷ lệ dự trữ bắt buộc và tỷ lệ thanh khoản tăng còn được lý giải bởi mối quan hệ lâu năm giữa ngân hàng và khách hàng làm cho khách hàng bỏ qua việc tăng chi phí này.

Tóm lại, nghiên cứu này đã chỉ ra các nhân tố tác động lớn nhất đến tín dụng của hệ thống ngân hàng là khối lượng tiền gửi và danh mục đầu tư. Các biến số vĩ mô như tỷ giá và GDP cũng là nhân tố ảnh hưởng đến khối lượng tín dụng của hệ thống ngân hàng Nigeria. Ngoài ra, lãi suất cho vay, tỷ lệ dự trữ bắt buộc và tỷ lệ thanh khoản, mặc dù về mặt lý thuyết, khi các yếu tố này tăng là sẽ làm giảm khối lượng tín dụng, nhưng tại Nigeria thì khối lượng tín dụng vẫn tăng khí các yếu tố này tăng.


Leonardo Gambacorta và Paolo Emilio Mistrulli [81] nghiên cứu những thay đổi trong hoạt động cho vay của các ngân hàng Italia trước những thay đổi của chính sách tiền tệ và sản lượng của nền kinh tế có xem xét sự khác biệt về vốn giữa các ngân hàng. Nghiên cứu sử dụng dữ liệu quý trong giai đoạn quý 3 năm 1992 đến quý 3 năm 2001 của hệ thống ngân hàng Italia và nền kinh tế nước này để kiểm định. Mô hình thực nghiệm được xây dựng để đo lường xem liệu các ngân hàng có mức độ vốn khác nhau thì khối lượng tín dụng có biến đổi khác nhau hay không trước cú sốc tiền tệ hoặc sản lượng.

Mô hình có dạng:


4 4 4 4

ln Lit11 ln Lit-1 1MPi-j ji-j j ln yi-j

j 1

j 0

j 0

j 0


4 4

Xit-1 ()l1nMP i-1 jXit-1MPi-j jXit-1

yi-j n n


Với :

j -1

j 1

i = 1... N (N là số ngân hàng), t = Quý

Lit = tín dụng của ngân hàng i tại thời điểm t

MPt = chỉ số chính sách tiền tệ

yt =GDP thực tế

t = tỷ lệ lạm phát

X it = mức vốn dư thừa

pit = chi phí trên một đơn vị tài sản mà ngân hàng i phải gánh chịu với 1% tăng thêm của chỉ số chính sách tiền tệ.

it

= biến kiểm soát

Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra: các ngân hàng có lượng vốn dư thừa càng nhiều thì khả năng bị xáo trộn khi có sự thay đổi về yêu cầu vốn càng ít và mở rộng tín dụng càng cao. Nghiên cứu cũng cho thấy việc thắt chặt chính sách tiền tệ có tác động làm thu hẹp tín dụng ngân hàng khi 1% tăng thêm của các chỉ số chính sách tiền tệ sẽ dẫn tới tín dụng của các ngân hàng giảm trung bình 1,2%. Trong đó, ở các HTX tín dụng (CCBs) con số này cao hơn trung


bình và ở mức 1,8% với mỗi 1% tăng thêm của chỉ số chính sách tiền tệ. Nghiên cứu cũng cho thấy ảnh hưởng của việc thắt chặt chính sách tiền tệ đối với các ngân hàng có mức vốn hóa lớn là nhỏ hơn nhiều so với các tổ chức tín dụng có mức vốn hóa thấp hơn.

Đối với biến chi phí tài sản, kết quả thực nghiệm đã cho thấy mối quan hệ ngược chiều giữa tăng trưởng tín dụng của các ngân hàng với biến này. Khi chi phí trên một đơn vị tài sản tăng thêm 1 điểm thì cũng đồng thời làm giảm tăng trưởng tín dụng của các ngân hàng đi 1% và con số này của các CCBs cũng cao hơn.

Mô hình ước lượng cũng cho thấy một mối tương quan thuận giữa tăng trưởng tín dụng với sản lượng và lạm phát. Theo kết quả ước lượng thì GDP thực tế tăng thêm 1% sẽ thúc đẩy tín dụng tăng thêm 0,7% ở các ngân hàng có nguồn vốn tốt trong khi con số này ở các CCBs thấp hơn.

Khi kiểm định mối tương quan giữa GDP và nguồn vốn dư thừa của các tổ chức tín dụng đã cho thấy hai biến này quan hệ ngược chiều với nhau. Điều này chứng minh các ngân hàng có nguồn vốn tốt thì hoạt động tín dụng sẽ ít phụ thuộc vào chu kỳ kinh doanh hơn các CCBs và các ngân hàng khác.

Tóm lại, nghiên cứu đã chỉ ra rằng, tăng trưởng tín dụng của các ngân hàng Italia chịu chi phối của các yếu tố chính như: mức vốn dư thừa, chỉ số chính sách tiền tệ, chi phí tài sản, lạm phát, GDP thực tế. Trong đó, mức vốn dư thừa, lạm phát và GDP thực tế là những nhân tố thúc đẩy tăng trưởng tín dụng ở các ngân hàng, còn chỉ số chính sách tiền tệ và chi phí tài sản là những nhân tố được cho là sẽ làm giảm tăng trưởng tín dụng ở các ngân hàng. Nghiên cứu cũng cho kết luận các ngân hàng có mức vốn hóa lớn sẽ đối phó tốt hơn với các cú sốc của chính sách tiền tệ cũng như nền kinh tế.

Công trình nghiên cứu của Boakye - Yiadom [2], thuộc Đại học Khoa học & Công nghệ, Viện Đào tạo Từ xa với tiêu đề “Hiệu quả của hệ thống quản lý tín dụng ngân hàng Ghana: Nghiên cứu trường hợp ngân hàng liên doanh HFC và ngân hàng liên doanh Barclays của Ghana, đã kiểm tra các


hoạt động quản lý rủi ro tín dụng của các ngân hàng của Ghana, trong đó sử dụng Ngân hàng HFC và Ngân hàng Barclays như mẫu nghiên cứu. Nghiên cứu cũng tìm cách xác định những nguồn chính của rủi ro tín dụng và các biện pháp giảm nhẹ đưa ra để quản lý rủi ro và đánh giá tác động của những rủi ro trên cơ sở an toàn vốn, chất lượng tài sản, quản lý, thu nhập và khả năng thanh toán, các vị trí nhạy cảm với rủi ro thị trường. Các phương pháp được sử dụng để nghiên cứu là mô-đun CAMELS.

Kết quả nghiên cứu cho thấy, các khoản vay thương mại, vay thế chấp và cho vay tiêu dùng là nguyên nhân chính gây ra rủi ro tín dụng. An toàn vốn đã được các ngân hàng giữ ở mức vốn tối thiểu. Tuy nhiên, chất lượng tài sản thấp dẫn đến tỷ lệ rủi ro tín dụng cao. Do đó, mặc dù mức lãi suất cao, tính thanh khoản giữa các ngân hàng tốt nhưng mức lợi nhuận thu được từ tín dụng vẫn thấp. Do đó, ngân hàng ở Ghana được khuyến nghị phải đa dạng hóa hoạt động tín dụng để giảm nguy cơ rủi ro. Ngân hàng cần thường xuyên xem xét và tiến hành nghiên cứu sâu hơn để đưa ra các chính sách và chiến lược tín dụng phù hợp.

Nghiên cứu trực tiếp về hiệu quả tín dụng của ngân hàng.

Tác giả N. Grace trong “The effect of credit risk management on the financial performance of commercial banks in Kenya” [87] đã chỉ ra rằng rủi ro tín dụng luôn luôn là mối quan tâm không chỉ của ngân hàng mà toàn bộ doanh nghiệp thế giới vì những rủi ro của một đối tác thương mại không thực hiện đầy đủ, đúng hạn nghĩa vụ của mình có thể gây nguy hiểm nghiêm trọng đến công việc của các đối tác khác. Nghiên cứu này đã tìm cách để xem xét ảnh hưởng của quản lý rủi ro tín dụng đến hiệu quả tài chính của các ngân hàng thương mại. Mô hình nghiên cứu sẽ phân tích mối quan hệ giữa hai biến thể hiện rủi ro tín dụng và các hiệu quả tài chính của các ngân hàng thương mại. Dữ liệu thứ cấp được thu thập từ các báo cáo của 26 ngân hàng thương mại trong giai đoạn 2007-2011 của Kenya. Các dữ liệu thu thập được đưa vào phân tích hồi quy. Kết quả đầu ra thu được thông qua sử dụng thống kê Khoa học Xã hội (SPSS phiên bản 18).


Trong mô hình trên vốn chủ sở hữu (ROE) được sử dụng như các chỉ số lợi nhuận trong khi các khoản nợ xấu (NPL) và tỷ lệ an toàn vốn (CAR) là chỉ số quản lý rủi ro tín dụng.

Nghiên cứu này cho thấy rằng có một mối quan hệ đáng kể giữa hiệu quả tài chính (thể hiện ở chỉ tiêu lợi nhuận) và quản lý rủi ro tín dụng (thể hiện ở chỉ tiêu nợ xấu và an toàn vốn. Các kết quả phân tích chỉ ra rằng tỷ lệ nợ xấu NPL và tỷ lệ an toàn vốn (CAR) có tác động tiêu cực và tương đối đáng kể đối với lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE). Trong đó, NPL có ảnh hưởng đến ROE nhiều hơn so với CAR.

Từ mối quan hệ giữa quản lý rủi ro tín dụng và hiệu quả tài chính của các ngân hàng thương mại, các nhà nghiên cứu chỉ ra rằng các ngân hàng cần xây dựng cho mình hệ thống phân loại rủi ro tín dụng. Hệ thống sẽ xác định mức độ rủi ro của khách hàng vay để đảm bảo việc quản lý khoản vay, giá cả cho vay tương xứng với rủi ro liên quan. Phân loại rủi ro là một thước đo quan trọng đảm bảo chất lượng tài sản của ngân hàng, và như vậy, điều quan trọng là phải phân loại rủi ro theo từng loại, căn cứ vào mức độ, khả năng xảy ra rủi ro. Tuỳ thuộc vào các điều kiện, tiêu chí phân loại rủi ro, các khách hàng vay vốn xẽ được xếp vào các lớp rủi ro nhất định và được công bố trên hệ thống quản lý của ngân hàng.

Các tác giả Samuel Hymore Boahene, Julius Dasah và Samuel Kwaku Agyei trong “Credit Risk and Profitability of Selected Banks in Ghana” [105] đã phân tích và chỉ ra mối quan hệ giữa rủi ro tín dụng và lợi nhuận ngân hàng ở Ghana. Theo nghiên cứu này, ngân hàng giống như tất cả các loại hình doanh nghiệp khác đang phải đối mặt với nhiều rủi ro như rủi ro lãi suất, ngoại tệ, rủi ro thanh khoản, rủi ro hoạt động, rủi ro chính trị, rủi ro công nghệ và rủi ro tín dụng. Trong số này rủi ro tín dụng cần được quan tâm đặc biệt. Nghiên cứu này xem xét mối quan hệ giữa rủi ro tín dụng và lợi nhuận của một số ngân hàng được lựa chọn ở Ghana. Một bảng dữ liệu từ sáu ngân hàng thương mại, trong năm năm (2005-2009) được tác giả sử dụng để phân tích về mối quan hệ này. Các dữ liệu chính được sử dụng cho nghiên cứu là từ nguồn thứ cấp đặc biệt là từ báo cáo tài chính của các ngân hàng.


Mô hình cơ bản được sử dụng cho nghiên cứu được viết như sau:

ROEi, t = α0 + βNCOTLi, t + δNPLi, t + θPPPNTLAi, t + ØSIZEi, t +

ΦGROi, t + γTDAi, t + εi, t

Trong đó, ROE là biến phụ thuộc thể hiện lợi nhuận/vốn chủ sở hữu. Các biến số độc lập thể hiện rủi ro tín dụng bao gồm: NCOTL là nợ khó đòi trên tổng dư nợ, NPL là nợ quá hạn trên tổng dư nợ, PPPNTLA là lợi nhuận trước trích lập dự phòng rủi ro trên tổng dư nợ. Các biến số độc lập khác gồm: SIZE là tổng tài sản của ngân hàng, thể hiện quy mô của ngân hàng, GRO mức tăng trưởng thu nhập từ tín dụng, thể hiện tốc độ tăng trưởng thu nhập, TDA là tổng nợ trên tổng tài sản của ngân hàng, đo lường cấu trúc vốn của ngân hàng.

Kết quả từ nghiên cứu cho thấy chỉ số rủi ro tín dụng có tác động tích cực và có mối quan hệ quan trọng với lợi nhuận ngân hàng. Có nghĩa rằng, trong thời gian nghiên cứu, ở Ghana, các ngân hàng vẫn có thể được hưởng lợi từ những rủi ro như rào cản về lãi suất cho vay, phí và hoa hồng. Các kết quả cũng miêu tả rằng quy mô ngân hàng như tốc độ tăng trưởng, và vốn vay của ngân hàng có ảnh hưởng đến lợi nhuận ngân hàng tích cực và đáng kể. Trong thực tế, mặc dù xuất hiện chi phí trung gian do trong cơ cấu vốn của các ngân hàng trong mẫu nghiên cứu sử dụng vốn vay nhiều hơn vốn chủ sở hữu, nghiên cứu này kết luận rằng, các ngân hàng này vẫn hoạt động tốt trong điều kiện phải đối mặt với rủi ro tín dụng. Kết quả nghiên cứu này trái ngược với rất nhiều công trình nghiên cứu thực nghiệm mà kết luận rằng rủi ro tín dụng có mối quan hệ tiêu cực với hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Vì vậy trong khi các ngân hàng nỗ lực giảm các khoản vay của họ, giảm các chi phí và hoa hồng hoặc thậm chí cố gắng từ bỏ một số loại phí như phí rút tiền từ ATM, nó cũng bắt buộc người đi vay hoàn trả vốn vay đúng hạn và đầy đủ để giảm thiểu rủi ro.

1.1.2. Tình hình nghiên cứu trong nước liên quan đến nâng cao hiệu quả tín dụng của ngân hàng thương mại

1.1.2.1. Những nghiên cứu hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại Việt Nam nói chung

Nội dung được nhiều công trình bàn luận là các tiêu chí đo lường hiệu

quả tín dụng và nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả tín dụng của NHTM Việt

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 21/04/2022