khẩn cấp hàng trăm ngàn tỷ đồng nợ xấu luôn đặt nặng trên vai. Vốn điều lệ thấp còn khiến cho VAMC gặp khó khăn trong hoạt động khi không thể thực hiện được tất cả các nhiệm vụ đặt ra như: đầu tư, sửa chữa, nâng cấp, khai thác, sử dụng, cho thuê tài sản đảm bảo,… Mặc khác, việc thanh toán các khoản nợ mua được từ các NHTMCP nói riêng và các TCTD nói chung bằng trái phiếu đặc biệt do chính VAMC phát hành không có tính hấp dẫn cao.
Về thị trường mua bán nợ, hành lang pháp lý để vận hành thị trường mua bán nợ tại Việt Nam còn nhiều hạn chế về chủ thể tham gia thị trường, việc thu giữ và phát mại tài sản bảo đảm, quyền và trách nhiệm của người mua và người bán chưa được quy định rõ ràng. Hiện nay, ngoài VAMC chỉ có Công ty Mua bán nợ Việt Nam – DATC của Bộ Tài chính là hoạt động tích cực, còn lại 28 công ty mua bán nợ (AMC) của các NHTMCP đều có nguồn lực hạn chế, chỉ đủ để xử lý các khoản nợ cho chính ngân hàng mẹ, không tham gia vào thị trường mua bán nợ. Ngoài hạn chế về năng lực, thị trường mua bán nợ của các ngân hàng Việt Nam còn thiếu đa dạng trong phương thức mua bán, hiện nay chỉ thực hiện mua bán theo thỏa thuận dẫn đến thiếu linh hoạt.
Về vấn đề định giá nợ xấu, hiện nay việc định giá nợ xấu một cách chính xác gặp nhiều khó khăn, một phần do thị trường mua bán nợ chưa phát triển do đó không có nhiều tổ chức định giá nợ độc lập, chuyên nghiệp. Việc định giá các khoản nợ chưa đúng giá trị thực khiến cho việc thống kê và xử lý nợ gặp nhiều khó khăn. Vấn đề này phát sinh do trong quá khứ, một số các tài sản đảm bảo được định giá cao hơn nhiều so với giá trị thực làm cho việc bán nợ theo giá thực tế có thể gây thiệt hại lớn cho các tổ chức bán nợ.
Thứ hai, tác động tiêu cực của các hoạt động M&A ngân hàng
Giai đoạn nghiên cứu từ 2013 – 2018 chứng kiến 5 thương vụ mua bán, sáp nhập lớn giữa các ngân hàng (Pvcombank, HDBank, Maritime Bank, BIDV, Sacombank). Ngoài những mặt tích cực như gia tăng quy mô vốn, mạng lưới hoạt động; vấn đề hậu sáp nhập vẫn chưa được các ngân hàng xử lý tốt dẫn đến sự thụt lùi về lợi nhuận và gia tăng nợ xấu. Những hạn chế của các thương vụ M&A có thể
kể đến như: làm sụt giảm tỷ lệ ROA và ROE ngay sau thời điểm sáp nhập, doanh thu và lợi nhuận sau thuế của các ngân hàng có dấu hiệu sụt giảm tại thời điểm M&A và giai đoạn sau đó, tỷ lệ lợi nhuận trên mỗi cán bộ nhân viên có sự sụt giảm lớn (Nguyễn Quang Minh, 2015). Nguyên nhân đến từ việc các ngân hàng chuẩn bị chưa tốt cho hoạt động M&A. Những ngân hàng bị sáp nhập (bị mua lại) thường đang hoạt động kinh doanh không ổn định, nợ xấu cao, lợi nhuận thấp,... gây ảnh hưởng cho ngân hàng nhận sáp nhập (ngân hàng đi mua) sau M&A. Hơn nữa, việc tăng trưởng đột biến về quy mô, mạng lưới và nhân sự cũng là thách thức lớn cho các ngân hàng nhận sáp nhập trong việc duy trì và cải thiện hoạt động kinh doanh, xử lý nợ xấu, đặc biệt trong thời kỳ hội nhập và cạnh tranh mạnh mẽ. Ngoài ngân hàng Pvcombank vẫn đang loay hoay thực hiện tái cơ cấu theo Đề án tái cơ cấu 2016 – 2020 của NHNN và tạm thời bỏ qua các chỉ tiêu doanh thu, lợi nhuận; một số các NHTMCP khác cũng phải đối mặt với khó khăn hậu M&A. Cụ thể: sau khi sáp nhập MHB vào BIDV, tỷ lệ nợ xấu của BIDV tăng lên đáng kể (2,16% vào thời điểm sáp nhập so với 2,03% vào cuối năm 2014); Sacombank sau khi sáp nhập SouthernBank phải gánh con số nợ xấu lên đến 3000 tỷ đồng so với 1.000 tỷ đồng mỗi năm khi chưa sáp nhập. Để giải quyết vấn đề nợ xấu, các ngân hàng nhận sáp nhập buộc phải dành lợi nhuận để trích lập dự phòng rủi ro khiến cho lợi nhuận trước thuế giảm mạnh. Có thể nói, hậu quả từ các thương vụ M&A là một trong những nguyên do khiến cho khả năng sinh lời của các ngân hàng giảm mạnh trong giai đoạn nghiên cứu.
Thứ ba, các chính sách và quy định pháp lý liên quan đến hoạt động ngân hàng chưa hoàn thiện và đồng bộ
Hệ thống khung pháp lý điều chỉnh các hoạt động kinh doanh của ngân hàng hiện nay khá phức tạp với nhiều văn bản, hướng dẫn, sửa đổi gây khó khăn trong việc áp dụng do phải tham chiếu nhiều văn bản được ban hành bởi các cơ quan khác nhau. Bên cạnh đó, các văn bản pháp lý đã được ban hành chưa đồng bộ, mang nhiều tính hành chính và tính thực tiễn chưa cao. Do đó, làm giảm tính tự chủ của các ngân hàng, tạo cho các ngân hàng tâm lý đối phó về mặt hành chính. Hệ thống
Có thể bạn quan tâm!
- Kết Quả Tính Toán Hiệu Quả Hđkd Theo Mô Hình Sfa Của Các Nhtmcp Việt Nam Giai Đoạn 2013-2018
- Đánh Giá Chung Về Hiệu Quả Hđkd Của Các Nhtmcp Việt Nam
- Đánh Giá Chung Về Hiệu Quả Hđkd Của Các Nhtmcp Việt Nam
- Xây Dựng Ngân Hàng Xanh Hướng Tới Phát Triển Bền Vững
- Giải Pháp Nâng Cao Hiệu Quả Hđkd Của Các Nhtmcp Việt Nam
- Nhóm Giải Pháp Nâng Cao Năng Lực Quản Trị Rủi Ro
Xem toàn bộ 227 trang tài liệu này.
các văn bản pháp luật có nhiều điểm chưa phù hợp với thông lệ quốc tế, đặc biệt trong lĩnh vực thanh toán quốc tế, dịch vụ ngân hàng điện tử,...
Thứ tư, thị trường tài chính Việt Nam chưa hoàn thiện
Thị trường tài chính chưa hoàn thiện là một trong những lý do làm hạn chế khả năng cung cấp dịch vụ của các NHTMCP Việt Nam. Thị trường tài chính Việt Nam hiện nay phát triển chưa cân bằng, chưa đáp ứng đủ nhu cầu vốn của các ngân hàng trong bối cảnh hội nhập. Bên cạnh đó, thị trường dịch vụ ngân hàng phát triển dưới mức tiềm năng, đặc biệt là dịch vụ ngân hàng bán lẻ và ngân hàng cá nhân. Các NHTMCP Việt Nam đang vừa phải thu hút khách hàng vừa phải đối phó sự cạnh tranh khốc liệt đến từ các ngân hàng nước ngoài – những tổ chức có kinh nghiệm lâu năm trong việc phát triển các sản phẩm, dịch vụ với chất lượng quốc tế.
Thứ năm, chưa phát huy được vai trò của sở hữu nước ngoài trong HĐKD ngân hàng
Trong mô hình hồi quy Tobit, biến sở hữu nước ngoài (FOR) có tác động tích cực đến hiệu quả HĐKD của các NHTMCP trong mẫu nghiên cứu. Nghĩa là các NHTMCP có tỷ lệ sở hữu nước ngoài cao hoạt động hiệu quả hơn. Trên thực tế, khó có thể phủ nhận vai trò của sở hữu nước ngoài trong kinh doanh ngân hàng, đặc biệt là ở 2 khía cạnh: chuyển giao công nghệ và chuyển giao kinh nghiệm quản lý. Tuy nhiên, các cổ đông nước ngoài trong hệ thống NHTMCP Việt Nam hiện nay tương đối hạn chế, cả về quy mô sở hữu và thời gian hiện diện. Theo quy định, giới hạn sở hữu của các nhà đầu tư nước ngoài không được vượt quá 30% tổng số cổ phần của ngân hàng Việt Nam. Sự ràng buộc này khiến cho chính các nhà đầu tư nước ngoài tỏ ra khá “e dè” khi xúc tiến đầu tư vào lĩnh vực ngân hàng tại Việt Nam.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Trong chương 2, luận án phân tích thực trạng hiệu quả HĐKD của các NHTMCP Việt Nam giai đoạn 2013 – 2018. Tác giả đánh giá hiệu quả HĐKD của 29 NHTMCP Việt Nam theo 6 nhóm chỉ tiêu truyền thống bao gồm: hiệu quả sử dụng vốn, hiệu quả sử dụng tài sản, hiệu quả sử dụng lao động, hiệu quả kiểm soát chi phí, hiệu quả quản trị điều hành và hiệu quả phòng chống rủi ro. Bên cạnh đó, tác giả cũng sử dụng phương pháp đo lường hiện đại – kết hợp giữa tiếp cận tham số SFA và phi tham số DEA để hoàn thiện việc đánh giá hiệu quả HĐKD của các ngân hàng. Cuối cùng, mô hình hồi quy TOBIT được sử dụng để tìm kiếm các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả HĐKD của các ngân hàng trong mẫu nghiên cứu.
Kết quả phân tích thực trạng cho thấy không có sự khác biệt lớn về kết quả khi sử dụng các phương pháp truyền thống và hiện đại, mặc khác, những kết quả phân tích lại bổ sung cho nhau. Khi sử dụng phương pháp truyền thống bằng cách tính toán các chỉ tiêu tài chính, khó có thể tổng hợp và xác định điểm hiệu quả của một ngân hàng so với tổng thể mẫu – điều này được khắc phục khi sử dụng phương pháp hiện đại. Cả 2 cách tiếp cận hiện đại DEA và SFA đều phân ra các nhóm ngân hàng hoạt động hiệu quả và chưa hiệu quả là như nhau tuy có khác biệt rất nhỏ về tứ tự sắp xếp. Kết quả ước lượng mô hình hồi quy Tobit về sự tác động của các nhân tố tới hiệu quả HĐKD của ngân hàng (TE) chỉ ra rằng có 6 nhân tố tác động cùng chiều là: QMTS, VCSHTS, STATE, FOR, GDP và MARKSHARE; 3 nhân tố có tác động ngược chiều là: NPL, DNTTS và CPTN.
CHƯƠNG 3
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN VIỆT NAM
3.1 Quan điểm, định hướng hoạt động kinh doanh của các NHTMCP Việt Nam
3.1.1 Quan điểm, định hướng của Chính Phủ và NHNN đối với sự phát triển của hệ thống NHTMCP Việt Nam
Với quan điểm coi hệ thống ngân hàng là huyết mạch của nền kinh tế, giữ vai trò trọng yếu trong hệ thống tài chính Việt Nam, ngày 8 8 2018, Chính phủ đã ban hành Quyết định số 986 QĐ-TTg về Chiến lược phát triển ngành Ngân hàng Việt Nam đến năm 2025, định hướng đến năm 2030. Chiến lược nêu rõ mục tiêu phát triển hệ thống ngân hàng nói chung và các NHTMCP Việt Nam nói riêng, bao gồm:
- Giảm dần tỷ lệ tín dụng ngoại tệ/tổng tín dụng
Quan điểm của Chính phủ thực hiện giảm dần tỷ lệ tín dụng ngoại tệ tổng tín dụng theo lộ trình chậm nhất đến năm 2030 các NHTM tiến tới ngừng cho vay ngoại tệ, khắc phục tình trạng đô la hóa trong nền kinh tế. Đây cũng là định hướng của NHNN trong những năm gần đây và được đề cập đến trong Thông tư số 42/2018/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 24 2015 TT- NHNN quy định cho vay bằng ngoại tệ của TCTD đối với khách hàng vay là người cư trú. Thông tư này nhằm cụ thể hóa quan điểm của Chính Phủ và từng bước thực hiện chuyển đổi quan hệ huy động – cho vay sang quan hệ mua – bán ngoại tệ.
- Đẩy mạnh phát triển thanh toán không dùng tiền mặt, tối ưu hóa mạng lưới ATM và POS
Thanh toán không dùng tiền mặt thông qua hệ thống NHTM là một trong những định hướng phát triển từ nhiều năm qua của Chính Phủ. Tuy nhiên, vì nhiều lý do, việc sử dụng tiền mặt trong giao dịch vẫn còn phổ biến. Ngày 30 12 2016, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 2545 QĐ-TTg phê duyệt Đề án phát triển thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam giai đoạn 2016 – 2020 với mục tiêu giảm tỷ trọng tiền mặt trên tổng phương tiện thanh toán xuống dưới 10% vào cuối năm 2020. Tiếp theo đó, ngày 24 2 2018, Thủ tướng Chính Phủ phê duyệt
Đề án đẩy mạnh thanh toán qua ngân hàng với dịch vụ công như: thuế, điện, nước, học phí, viện phí,... nhằm tạo ra những bước tiến đột phá hơn. Thực hiện chủ trương phát triển thanh toán không dùng tiền mặt, NHNN cũng đang đẩy mạnh hoàn tất xây dựng Tiêu chuẩn cơ sở “Đặc tả kỹ thuật QR Code trong lĩnh vực thanh toán tại Việt Nam” với chuẩn EMV mới vừa tiện lợi và an toàn cho khách hàng vừa mang lại lợi ích cho ngân hàng trong việc phát triển mạng lưới, đồng thời giảm chi phí đầu tư thiết bị thanh toán cho doanh nghiệp.
- Tăng cường khả năng tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng
Bám sát các Nghị quyết của Đảng và Quốc hội, Chính Phủ và NHNN nêu lên định hướng về việc hỗ trợ doanh nghiệp (đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa) và người dân tiếp cận kịp thời với các dịch vụ tài chính, ngân hàng nhằm đảm bảo nguồn vốn phục vụ sản xuất, kinh doanh. Theo đó, các NHTM cần tập trung thiết kế các sản phẩm tín dụng phù hợp với các nhóm dân cư chưa hoặc ít có điều kiện tiếp cận với các dịch vụ ngân hàng truyền thống, đặc biệt là dân cư ở vùng sâu, vùng xa, điều kiện kinh tế khó khăn. Đối với doanh nghiệp, các NHTM cũng cần đa dạng hóa hình thức cấp tín dụng, phối hợp với các đối tác thuộc nhiều lĩnh vực để cung cấp sản phẩm tài trợ chuỗi cung ứng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Bên cạnh đó, NHTM cần tinh giản hóa quy trình xét duyệt và cấp tín dụng, tăng cường ứng dụng công nghệ hiện đại để xử lý nhanh chóng và chính xác các giao dịch.
- Phát triển hệ thống các TCTD phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội và thực trạng của hệ thống qua từng giai đoạn
Giai đoạn 2018 – 2020: Tiếp tục tái cơ cấu lại hệ thống các TCTD, xử lý căn bản và triệt để vấn đề nợ xấu và giảm số lượng các TCTD yếu kém; Tiếp tục lành mạnh hóa tình hình tài chính của các TCTD; Từng bước xử lý và xóa bỏ tình trạng đầu tư chéo, sở hữu chéo và sở hữu có tính chất thao túng, đẩy mạnh thoái vốn ngoài ngành của các NHTM. Theo đó, phấn đấu đến cuối năm 2020 hệ thống NHTM Việt Nam sẽ đạt chuẩn Basel II, có ít nhất 1-2 ngân hàng lọt vào top 100 ngân hàng lớn nhất (về tổng tài sản) trong khu vực Châu Á; Tăng tỷ trọng từ hoạt động phi tín dụng lên khoảng 12% - 13% tổng thu nhập của các NHTM; Hoàn
thành việc niêm yết cổ phiếu của các NHTMCP trên thị trường chứng khoán Việt Nam; Giảm tỷ lệ nợ xấu nội bảng của các TCTD, nợ xấu đã bán cho VAMC và nợ đã thực hiện các biện pháp phân loại nợ xuống dưới 3%.
Giai đoạn 2021 – 2025: Nâng cao năng lực cạnh tranh, sự minh bạch, tuân thủ các chuẩn mực, thông lệ quốc tế trong quản trị và hoạt động của các NHTM, các TCTD. Phấn đấu đến cuối năm 2025 có ít nhất 2-3 NHTM lọt vào top 100 ngân hàng lớn nhất (về tổng tài sản) trong khu vực Châu Á và có từ 3-5 ngân hàng niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán nước ngoài; Triển khai thí điểm áp dụng Basel II theo phương pháp nâng cao tại một số NHTM đã hoàn thành áp dụng Basel II theo phương pháp tiêu chuẩn; Tăng tỷ trọng từ hoạt động phi tín dụng lên khoảng 16% - 17% tổng thu nhập của các NHTM; Đưa tỷ lệ nợ xấu của toàn hệ thống TCTD xuống dưới 3%. Đồng thời, trong giai đoạn này, Chính phủ và NHNN cũng khuyến khích các NHTM thúc đẩy phát triển “tín dụng xanh” và “ngân hàng xanh” để góp phần thực hiện chuyển đổi kinh tế sang hướng phát triển xanh và bền vững.
Với những quan điểm và định hướng trên, Chính Phủ và NHNN thể hiện rõ quyết tâm xây dựng một hệ thống NHTM vững mạnh, từ đó từng bước nâng cao vị thế của ngành ngân hàng Việt Nam, tạo tiền đề cho phát triển kinh tế nhanh và bền vững, góp phần hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
3.1.2 Quan điểm, định hướng nâng cao hiệu quả HĐKD của các NHTMCP Việt Nam
Các quan điểm, định hướng kinh doanh của các NHTMCP Việt Nam trong thời gian tới như sau:
3.1.2.1 Tiếp tục tái cơ cấu hệ thống NHTMCP
Kể từ khi Chính phủ ban hành Quyết định 254 QĐ-TTg phê duyệt đề án “Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011-2015” vào đầu năm 2012, lộ trình tái cơ cấu ngân hàng đã có những bước tiến dài. Đầu tiên là hoạt động sáp nhập, hợp nhất của các TCTD, sau đó các tổ chức kinh tế tư nhân trong nước góp vốn vào tái cấu trúc ngân hàng và việc NHNN mua 0 đồng các ngân hàng yếu kém không thể tự tái cơ cấu. Nhận thấy những hạn chế của đề án tái cơ cấu lần 1, vào
giữa năm 2017, Chính phủ tiếp tục ban hành Quyết định 1058 QĐ-TTg phê duyệt đề án “Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016-2020”, trong đó mục tiêu quan trọng nhất là là xử lý căn bản, triệt để nợ xấu và các TCTD yếu kém. Thực trạng cho thấy nguồn lực trong nước còn hạn chế, trong khi đó tình trạng sở hữu chéo đang ngày càng phức tạp, vì vậy, các NHTMCP yếu kém có xu hướng lựa chọn các nhà đầu tư nước ngoài tham gia tái cơ cấu. Việc sử dụng dòng vốn của các nhà đầu tư nước ngoài được đánh giá là rất cần thiết trong công cuộc tái cấu trúc ngành ngân hàng trong tình hình hiện nay.
3.1.2.2 Nâng cao năng lực cạnh tranh cho các NHTMCP Việt Nam
Các NHTMCP nâng cao khả năng cạnh tranh bằng cách: xác định rõ chiến lược khách hàng và thị trường; phát triển và đa dạng hóa các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng chất lượng cao dựa trên nền tảng công nghệ hiện đại; mở rộng mạng lưới; chú trọng thu hút và giữ chân nhân tài nhằm đáp ứng nhu cầu nhân lực ngày càng cao của quá trình hội nhập.
a. Xác định rõ chiến lược khách hàng và thị trường
Thị trường vừa là đối tượng phục vụ, vừa là môi trường hoạt động của các ngân hàng. Để có thể chiếm lĩnh thị trường, các NHTMCP phải xác định được đối tượng khách hàng tiềm năng và đặt khách hàng làm trung tâm để xây dựng chiến lược chuyên biệt như mở rộng mạng lưới, đa dạng hóa sản phẩm, dịch vụ. Các NHTMCP mở rộng mạng lưới giao dịch bằng cách phục vụ tối đa lượng khách hàng mục tiêu cũng như gia tăng độ phủ sóng thương hiệu. Bên cạnh đó, các NHTMCP cũng đưa thêm vào phục vụ phân khúc khách hàng cao cấp khi ngày càng có nhiều khách hàng mong muốn được sử dụng dịch vụ cao cấp của ngân hàng.
b. Phát triển và đa dạng hóa các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng chất lượng cao
Các NHTMCP tập trung triển khai các dịch vụ ngân hàng mới, dịch vụ ngân hàng điện tử, các sản phẩm phái sinh tiền tệ, quản lý tài sản và tiền mặt, dịch vụ tư vấn tài chính và các dịch vụ ngân hàng hiện đại khác dựa trên cơ sở tiếp tục nâng cao chất lượng và hiệu quả các dịch vụ ngân hàng truyền thống theo định hướng