Khái Quát Về Hoạt Động Cho Vay Dnnvv Của Ngân Hàng Thương Mại


Mục đích của việc phân loại các DNNVV như vậy, vừa là để xây dựng các chủ trương, chính sách trợ giúp phát triển DNNVV; mặt khác để tăng cường quản lý của nhà nước về phát triển DNNVV ở nước ta.

1.1.1.3. Đặc điểm của doanh nghiệp nhỏ và vừa

DNNVV có vốn đầu tư ban đầu ít, thu hồi vốn nhanh:

Với qui mô sản xuất nhỏ nên nhu cầu vốn đầu tư thấp (dưới 10 tỷ đồng), chu kỳ sản xuất kinh doanh thường ngắn nên khả năng thu hồi vốn rất nhanh góp phần làm tăng tốc độ vòng quay của vốn, giảm các khoản chi phí vốn mang lại hiệu quả sử dụng vốn cho doanh nghiệp.

DNNVV tồn tại ở hầu hết các lĩnh vực, các thành phần kinh tế:

Nền kinh tế nước ta tồn tại và phát triển bao gồm nhiều thành phần với nhiều loại hình doanh nghiệp, từ các doanh nghiệp nhà nước, các công ty tư nhân tới các hợp tác xã. DNNVV được lực chọn các ngành nghề kinh doanh trong các lĩnh vực nông - lâm - ngư nghiệp, công nghiệp, xây dựng... phù hợp qui định của Nhà nước. Các doanh nghiệp nói chung và các DNNVV nói riêng được kinh doanh bình đẳng trước pháp luật trong các lĩnh vực của nền kinh tế trên mọi miền đất nước.

DNNVV có tính linh hoạt và thích ứng cao:

Trong cơ chế thị trường, để tồn tại và phát triển bền vững thì các doanh nghiệp phải nắm bắt kịp thời các nhu cầu của thị trường. Xuất phát từ đặc điểm có qui mô sản xuất nhỏ, vốn đầu tư ban đầu không lớn, cơ cấu tổ chức đơn giản, gọn nhẹ, doanh nghiệp dễ dàng điều chỉnh chuyển hướng sản xuất kinh doanh vào những ngành nghề khác khi cảm thấy lĩnh vực đó có lợi hơn. Mặt khác, cơ cấu gọn nhẹ cũng giúp chủ doanh nghiệp dễ dàng hơn trong việc quản lý, giám sát, tiết kiệm chi phí quản lý, hạn chế sự sai lệch thông tin. Hơn nữa, các DNNVV không gặp nhiều khó khăn như doanh nghiệp lớn trong việc chuyển đổi địa điểm sản xuất kinh doanh. Bởi vì các DNNVV thường sử dụng chính những diện tích đất của mình để làm mặt bằng sản xuất. Ngoài ra, DNNVV có thể nắm bắt được cả những nhu cầu nhỏ lẻ mang tính khu vực và địa phương. Điều này giúp cho DNNVV khai thác hết năng lực của mình, đạt tới hiệu quả kinh doanh cao nhất.


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 104 trang tài liệu này.

Năng lực tài chính thấp:

Nhược điểm lớn nhất, dễ thấy nhất và đáng quan tâm nhất của các DNNVV đó là năng lực tài chính. Việc tiến hành việc sản xuất kinh doanh của DNNVV chủ yếu chỉ dựa vào nguồn vốn tự có của một hoặc một số cá nhân. Nguồn vốn này không đủ để doanh nghiệp có thể đổi mới dây chuyền công nghệ, tăng năng suất, nâng cao chất lượng sản phẩm... Mặt khác, việc tiếp cận nguồn vốn vay từ các tổ chức tín dụng còn hạn chế. Nguyên nhân là do ngoài sự yếu kém về quản lý kinh tế thì tài sản thế chấp không đủ điều kiện, báo cáo tài chính, sổ sách kế toán của doanh nghiệp không rõ ràng, minh bạch.

Hiệu quả cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Ngân hàng thương mại cổ phẩn Hàng Hải Việt Nam - Chi nhánh Bắc Ninh - 3

Năng lực quản lý, điều hành của chủ DNNVV thấp:

Trình độ quản lý của chủ doanh nghiệp còn bộc lộ nhiều hạn chế. Chủ doanh nghiệp thành lập doanh nghiệp do có sẵn mối quan hệ với các kênh cung ứng với thị trường. Nhiều chủ doanh nghiệp còn có thói quen điều hành quản trị theo kiểu gia đình. Việc tách bạch giữa các bộ phận trong doanh nghiệp chưa rõ ràng. Chủ doanh nghiệp chưa được đào tạo qua một khóa quản lý chính quy nào, thậm chí không qua đào tạo nên thiếu hiểu biết về pháp luật, kinh tế...

Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp còn hạn chế

Do quy mô nhỏ, cơ sở vật chất kỹ thuật, trình độ thiết bị công nghệ yếu kém, lạc hậu nên chất lượng sản phẩm không cao, năng suất lao động thấp. Thêm vào đó, trình độ tay nghề cũng như khả năng tiếp cận công nghệ mới của người lao động còn hạn chế. DNNVV ít có khả năng thu hút được những nhà quản lý và lao động có trình độ tay nghề cao do không có khả năng trả lương cao và những chính sách đãi ngộ hấp dẫn. Ngoài ra, việc tiếp cận thông tin của doanh nghiệp vẫn còn yếu kém và chưa kịp thời. Tất cả những điều này làm giảm tính cạnh tranh của DNNVV, tạo ra rào cản làm sản phẩm của doanh nghiệp khó tiếp cận với thị trường, đặc biệt là thị trường xuất khẩu.

Như vậy, việc nắm rõ những đặc điểm của DNNVV trong nền kinh tế thị trường sẽ giúp các định chế tài chính, ngân hàng khai thác được khoảng trống thị trường, từ đó có thể mở rộng thị trường, hoàn thiện cũng như phát triển sản phẩm, dịch vụ của mình.

1.1.2. Khái quát về hoạt động cho vay DNNVV của ngân hàng thương mại


1.1.2.1. Khái niệm cho vay đối với DNNVV của ngân hàng thương mại

“Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời hạn nhất định - thời hạn vay theo thỏa thuận với nguyên tắc hoàn trả cả nợ gốc và nợ lãi”, (Luật các tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12).

Có hai nguyên tắc mà khách hàng luôn phải đảm bảo khi tiếp cận với nguồn vốn của ngân hàng, đó là:

+ Sử dụng vốn đúng mục đích đã thỏa thuận trong hợp đồng cho vay.

+ Hoàn trả cả nợ gốc và lãi vốn theo đúng thời hạn thỏa thuận trong hợp đồng cho vay.

Cho vay là hoạt động quan trọng nhất của một NHTM, nó chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng tài sản của một ngân hàng, tạo ra thu nhập rất lớn từ lãi vay cũng là hoạt động mang lại nhiều rủi ro cho ngân hàng nhất.

Như vậy, có thể rút ra khái niệm cho vay đối với doanh nghiệp của NHTM là:Cho vay đối với DNNVV của NHTM là một hình thức cấp tín dụng, theo đó NHTM giao cho DNNVV một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và trong một thời hạn nhất định quy định trong hợp đồng cho vay. Doanh nghiệp phải đảm bảo hai nguyên tắc: sử dụng vốn vay đúng mục đích và hoàn trả cả gốc và lãi đúng thời hạn trong hợp đồng”.

Về phía ngân hàng, cho vay đối với các doanh nghiệp luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng dư nợ tín dụng của mình. Vì vậy, các ngân hàng luôn cố gắng cung cấp đến doanh nghiệp những dịch vụ đa dạng nhất, tốt nhất, giữ được uy tín của mình và có sức cạnh tranh trên thị trường.

1.1.2.2. Các hình thức cho vay đối với DNNVV của ngân hàng thương mại

Có thể phân chia các hình thức cho vay đối với DNNVV thành 02 loại sau:

Cho vay ngắn hạn

Cho vay trung dài hạn

* Cho vay ngắn hạn: Trong quá trình hoạt động doanh nghiệp cần đầu tư vốn vào tài sản lưu động, doanh nghiệp có thể sử dụng vốn ngắn hạn hoặc trung, dài hạn để tài trợ cho tài sản lưu động. Tuy nhiên, do nhu cầu vốn dài hạn để đầu tư vào tài


sản cố định rất lớn nên thông thường doanh nghiệp khó có thể sử dụng nguồn vốn dài hạn để đầu tư vào tài sản lưu động.

Nhu cầu tài trợ ngắn hạn của doanh nghiệp có thể chia thành: nhu cầu ngắn hạn thường xuyên và nhu cầu tài trợ ngắn hạn thời vụ. Nhu cầu tài trợ thường xuyên do đặc điểm luân chuyển vốn của doanh nghiệp quyết định trong trong khi nhu cầu tài trợ thời vụ do đặc điểm thời vụ của ngành sản xuất kinh doanh quyết định.

Trong quá trình hoạt động, doanh nghiệp luôn có nhu cầu tài trợ ngắn hạn, thường xuyên hoặc thời vụ. Chính nhu cầu tài trợ này là cơ sở để ngân hàng thực hiện cấp tín dụng cho doanh nghiệp.

Có hai hình thức cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp hiện nay rất phổ biến là: cho vay theo món và cho vay theo hạn mức.

- Cho vay theo món là khách hàng xin vay món nào thì phải làm hồ sơ xin vay món đó. Như vậy, nếu trong một quý khách hàng có bao nhiêu món vay thì phải làm bấy nhiêu hồ sơ xin vay và cũng bấy nhiêu lần bộ phận tín dụng phân tích và xem xét nhu cầu vay. Cho vay theo món giúp ngân hàng chủ động sử dụng vốn, thu lãi cao nhưng thủ tục lại phức tạp, tốn chi phí, thời gian, khách hàng không chủ động được nguồn vốn, hiệu quả sử dụng không cao.

- Cho vay theo hạn mức tín dụng là loại cho vay chỉ cần một hồ sơ xin vay cho nhiều món vay. Cụ thể khách hàng nộp hồ sơ vay vốn một lần, thường là vào đầu năm dù trong năm khách hàng có nhiều món vay cũng chỉ làm một hồ sơ duy nhất. Ngân hàng tiến hành phân tích tín dụng và nếu đồng ý cho vay, hai bên tiến hành ký kết hợp đồng, trong hợp đồng sẽ có hạn mức cho vay đối với khách hàng.

Hạn mức tín dụng là mức dư nợ tối đa được duy trì trong một khoảng thời hạn nhất định mà ngân hàng và khách hàng đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng. Khác với loại cho vay thông thường, ngân hàng không xác định kỳ hạn nợ cho từng món vay mà chỉ khống chế theo hạn mức tín dụng.

Đối với loại cho vay này, một hợp đồng tín dụng được sử dụng cho cả năm, hết hạn, khách hàng phải làm một hồ sơ mới (tái cấp lại hạn mức tín dụng).


Cho vay theo hạn mức có những ưu điểm như: thủ tục đơn giản, khách hàng chủ động được nguồn vốn vay, lãi trả cho ngân hàng thấp. Tuy nhiên, lại có những nhược điểm như: ngân hàng dễ bị đọng vốn kinh doanh, thu nhập lãi vay thấp.

* Cho vay trung, dài hạn: Cho vay trung hạn là các khoản cho vay có thời hạn từ hơn 12 tháng đến 60 tháng. Cho vay dài hạn là các khoản cho vay có thời hạn cho vay từ 60 tháng trở lên. Mục đích của cho vay trung và dài hạn là nhằm đầu tư vào tài sản cố định của doanh nghiệp.

Các phương thức cho vay trung và dài hạn:


Như đã nói, cho vay dài hạn nhằm giúp khách hàng đầu tư vào tài sản cố định. Dựa vào mục đích cho vay, ngân hàng có thể cho khách hàng vay vốn dài hạn để mua sắm tài sản cố định như máy móc thiết bị hoặc cho khách hàng vay vốn dài hạn đầu tư vào một dự án đầu tư. Cho nên về phương thức cho vay dài hạn, có thể có hai hình thức sau đây:

- Cho vay mua sắm máy móc thiết bị.

- Cho vay đầu tư dự án.

1.1.2.3. Quy trình cho vay đối với DNNVV của ngân hàng thương mại

Tiếp thị, đề xuất tín dụng

Thẩm định tín dụng

Quyết định

Giải ngân

Quản lý, giám sát

Thu nợ, xử lý nợ

Quy trình cho vay đối với DNNVV của các Ngân hàng thương mại hiện nay như sau:



- Tiếp thị, nhận hồ sơ

- Xem xét hồ sơ,

kiểm tra 2.

chéo thông

tin


- Tiếp thị, nhận hồ sơ

- Lập báo cáo đề xuất tín dụng và Trình cấp có thẩm quyền phê duyệt.

- Phê duyệt cấp tín dụng

- Hoàn thiện các điều kiện kèm theo


- Hoàn chỉnh hồ sơ thủ tục đầy đủ

- Chuyển toàn bộ hồ sơ cho Bộ phận quản trị tín dụng

- Theo dõi giám sát khoản cấp tín dụng cho đến khi thanh lý hợp đồng/tất toán khoản vay

- Thực hiện phân loại nợ

- Đôn đốc khách hàng trả nợ gốc và lãi đúng hạn


1.2. Hiệu quả cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa tại ngân hàng thương mại

1.2.1. Khái niệm hiệu quả cho vay

Có rất nhiều quan niệm cũng như cách nghĩ khác nhau về hiệu quả. Có người cho rằng “hiệu quả là kết quả như yêu cầu của công việc mang lại”. Hay trong từ điển Bách khoa Việt Nam tập 2 có viết “Hiệu quả là kết quả mong muốn, cái sinh ra kết quả mà con người chờ đợi và hướng tới; nó có nội dung khác nhau ở những lĩnh vực khác nhau. Trong sản xuất hiệu quả có thể là năng suất, hiệu suất. Trong kinh doanh, hiệu quả có thể là lợi nhuận, trong lao động nói chung hiệu quả là năng suất lao động, được đánh giá bằng số lượng thời gian hao phí để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm, hoặc bằng số lượng sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian …”

Có nhiều khái niệm nhưng ta có thể đúc rút được 2 vấn đề sau: Thứ nhất, hiệu quả được đo bằng kết quả đạt được trên chi phí bỏ ra. Thứ hai, nó phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực để đạt được các mục tiêu xác định.

Như vậy, theo quan điểm của em: “Hiệu quả cho vay DNNVV của NHTM là kết quả đạt được khi cho vay DNNVV (được đo bằng một số chỉ tiêu như doanh số cho vay, doanh số thu nợ, dư nợ, lãi từ hoạt động cho vay DNNVV …) tính trên chi phí bỏ ra khi cho vay (chí về lãi, thời gian, tiền bạc…); đó chính là tính sinh lời và an toàn khi cho vay đối với DNNVV”.

1.2.2. Sự cần thiết nâng cao hiệu quả cho vay đối với doanh nghiệp nhỏ và

vừa

Hoạt động cho vay đóng vai trò quan trọng, không chỉ đối với NHTM mà đối

với cả nền kinh tế và đặc biệt là với DNNVV. Chính vì thế, việc nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay là hết sức cần thiết, đây là mục tiêu quan trọng hàng đầu của hệ thống NHTM nhằm khai thác, huy động vốn, sử dụng vốn có hiệu quả theo yêu cầu phát triển của nền kinh tế. Khi hiệu quả hoạt động cho vay tăng cao sẽ tránh được những rủi ro có thể xảy ra đối với khách hàng doanh nghiệp, đối với NHTM và toàn bộ nền kinh tế.


1.2.2.1. Đối với nền kinh tế

Trước tiên phải khẳng định tầm quan trọng của hệ thống ngân hàng. Nó là hệ thống trung tâm đầu não của nền kinh tế quốc gia. Bất kì một sự biến động nào của hệ thống Ngân hàng, với tư cách là một định chế tài chính trung gian đều tác động lan tỏa đến mọi ngành nghề, mọi hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế. Ngược lại, những biến động của nền kinh tế đều có ảnh hưởng đến hoạt động của toàn hệ thống ngân hàng. Chính vì vậy, đảm bảo an toàn trong kinh doanh, nâng cao hiệu quả cho vay là yêu cầu tất yếu đặt ra cho hệ thống NHTM có thể phát huy đầy đủ vai trò tích cực của tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế thị trường.

Ngày nay, trước xu hướng hội nhập, hệ thống NHTM phát triển với nghiệp vụ kinh doanh ngày càng đa dạng, tốc độ hội nhập khá nhanh trong xu hướng tự do hóa tài chính, phát triển với quy mô ngày càng lớn, trở thành tập đoàn đa năng có thể đáp ứng đầy đủ nhu cầu vốn cho nền kinh tế thị trường. Nhưng nếu mở rộng tín dụng quá mức sẽ gây ảnh hưởng đến hiệu quả cho vay khi các khoản nợ khó đòi có chiều hướng gia tăng, nguy cơ dẫn đến khủng hoảng tài chính rất cao.

1.2.2.2. Đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa

Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, hoạt động của các doanh nghiệp chịu sự cạnh tranh khốc liệt. Để có thể đáp ứng tốt nhất các yêu cầu của thị trường, các doanh nghiệp không những cần nâng cao chất lượng lao động, củng cố và hoàn thiện cơ chế quản lý chế độ hạch toán kế toán, mà còn phải không ngừng nâng cao, cải tiển máy móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ, tìm tòi và sử dụng vật liệu mới, mở rộng quy mô sản xuất một cách thích hợp. Những hoạt động này đòi hỏi một khối lượng lớn vốn đầu tư, nhiều khi vượt quá khả năng vốn tự có của doanh nghiệp. Để giải quyết khó khăn này, doanh nghiệp cần tìm đến ngân hàng xin vay vốn. Thông qua hoạt động cho vay, ngân hàng là cầu nối giữa doanh nghiệp với thị trường. Hoạt động cho vay đóng vai trò quan trọng đối với DNNVV, chính vì vậy việc nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay là vô cùng cần thiết đối với các DNNVV, cũng như các chủ thể kinh tế khác.


1.2.2.3. Đối với các ngân hàng thương mại

Phát triển hoạt động cho vay là điều kiện để ngân hàng bảo toàn vốn của mình. Vơi tư cách là trung gian tín dụng và trung gian thanh toán trong nền kinh tế, ngân hàng đi vay để cho vay. Đặc biệt trong tình hình hiện nay, tín dụng đang chiếm tỷ trọng lớn nhất trong cơ cấu tài sản có của Ngân hàng, việc phát triển tốt hoạt động cho vay còn là điều kiện để ngân hàng tăng lợi nhuận. Đây là cơ hội để ngân hàng duy trì được khả năng thanh toán, ổn định tình hình tài chính và nâng cao uy tín của mình.

Tóm lại, việc nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay được đặt ra như là một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của hệ thống NHTM nhằm khai thác, huy động, sử dụng nguồn vốn có hiệu quả theo yêu cầu của nền kinh tế, kích thích và tạo động lực phát triển cho các DNNVV và các chủ thể kinh tế khác, góp phát phát triển kinh tế quốc gia, ổn định trật tự xã hội.

1.2.3. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả cho vay đối với doanh nghiệp nhỏ và

vừa

Hiện nay, công tác cho vay chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tài sản có của

NHTM. Nhắc đến thu nhập cho vay là nhắc đến thu nhập lãi và thu tương tự. Trong đó thu nhập lãi chiếm khoảng 95-98%. Có rất nhiều chỉ tiêu để đánh giá hiệu quả cho vay DNNVV, nhưng học viên chú trọng đến các chỉ tiêu sau: Thu nhập lãi thuần, tỷ lệ thu nhập, doanh số, dư nợ cho vay DNNVV, .....

Doanh số cho vay

Doanh số cho vay DNNVV là chỉ tiêu tuyệt đối phán ánh tổng số tiền ngân hàng cho DNNVV vay trong thời kỳ nhất định, tùy vào chu kỳ kinh tế của ngân hàng (thường là một năm). Ngoài ra, ngân hàng còn dụng chỉ tiêu tương đối phán ánh tỷ trọng cho vay DNNVV trong tổng doanh số cho vay của ngân hàng trong một năm.

Tỷ trọng cho vay DNNVV = 100  Dư nợ cho vay Dư nợ cho vay đối với DNNVV là số tiền mà ngân hàng 1 * 100%

Dư nợ cho vay

Dư nợ cho vay đối với DNNVV là số tiền mà ngân hàng hiện còn đang cho doanh nghiệp vay tại một thời điểm nhất định (hay là lượng vốn mà doanh nghiệp

Xem tất cả 104 trang.

Ngày đăng: 13/10/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí