114
cái truyền thống được hiện đại nên các sản phẩm VH như vải thổ cẩm, trang phục DT đã bị hiện đại hóa, cách tân… làm mất đi sự đa dạng, phong phú mang đậm đà BSDT của đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc. Ngoài ra, những ngành nghề thủ công đang có xu hướng bị thu hẹp lại, thậm chí mất chỗ đứng do những sản phẩm công nghiệp đa dạng về chủng loại, mẫu mã, giá rẻ hơn xuất hiện tràn lan trên thị trường.
Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đem đến nhiều giá trị mới nhưng cũng kéo theo những hiện tượng phản VH, phản tiến bộ khiến cho đồng bào các DTTS vốn trình độ dân trí không cao, đã tiếp thu một cách thiếu chọn lọc, kể cả những yếu tố trái với thuần phong mỹ tục của DT mình nên đã tạo ra sự lai căng, mất gốc. Giới trẻ người DTTS đã có sự thay đổi lớn từ bên trong (nhận thức, tư duy, lối sống, cách ứng xử) cho đến những biểu hiện bên ngoài (trang phục, ngoại hình). Trên một mức độ nhất định, bản chất hiếu khách và chân thật đã dần mất đi thay vào đó là sự chèo kéo, bán hàng với giá cắt cổ ở một vài tụ điểm du lịch. Nhiều trẻ em lang thang, cơ nhỡ xuất hiện xin tiền du khách, sự gian dối trong kinh doanh xuất hiện (bán hàng kém chất lượng, hàng nhái, hàng giả, hàng trốn lậu thuế…). Trai gái mặc váy ngắn, quần soóc, nhuộm tóc, xăm mình, ăn mặc lố lăng, cung cách giao tiếp, ứng xử thiếu VH đã xuất hiện ở một bộ phận giới trẻ người DTTS. Những biểu hiện của sự lệch lạc trong tư duy, trong lối sống của một bộ phận giới trẻ người DTTS vùng Đông Bắc là do họ tiếp nhận một cách ồ ạt thiếu chọn lọc những luồng VH ngoại lai, phản tiến bộ, du nhập trong quá trình hội nhập.
* Nguyên nhân chủ quan
Thứ nhất, nhận thức chưa đầy đủ của các cấp, ban ngành từ trung ương đến địa phương và bản thân đồng bào các DTTS về việc giữ gìn, phát huy BSVHDT.
Trong suốt quá trình nhận thức của Đảng từ trước đổi mới đến nay, có những thời gian do quá nhấn mạnh việc xây dựng nền VH mới, phê phán và bài trừ VH phong kiến, lạc hậu, trong chỉ đạo đã có nhận thức không đúng về các giá trị VH truyền thống của đồng bào. Chẳng hạn, do sự thiếu hiểu biết về BSVH của đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc nên các cấp chính quyền, đặc biệt các cơ quan chuyên môn về VH chưa phân định được đâu là mặt sinh
115
hoạt VH cộng đồng - mang tính bản sắc, đâu là sinh hoạt tín ngưỡng của đồng bào; chưa nhận thức được đầy đủ các mặt tích cực và hạn chế trong các nghi lễ liên quan đến chu kì đời người và các nghi lễ liên quan đến sản xuất nên đã đồng nhất nó với cái cũ, cái lạc hậu, cái mê tín đị đoan; hoạt động tổ chức lễ hội, múa hát, vui chơi tập thể, đi chợ phiên bị coi là những hoạt động gây tốn kém về thời gian, tiền bạc. Do vậy, đã có những hành động cứng nhắc mang tính cấm đoán, dẹp bỏ phong tục đó, hạn chế việc tổ chức các sinh hoạt VH cộng đồng… làm ảnh hưởng đến tâm lý chung của đồng bào. Với bà con DT, những người vô cùng hồn hậu, chất phác, chỉ cần một việc làm nhỏ nào đó có tính chất không thiện chí cũng có thể khiến đồng bào dần mất niềm tin vào Đảng và chính quyền, làm giảm sút ý thức duy trì những giá trị VH làm nên bản sắc của cộng đồng, tạo nên sự hẫng hụt, trống trải về mặt tinh thần của đồng bào các DTTS, trong khi đó, kinh tế vùng đồng bào chưa thoát khỏi tình trạng kém phát triển, đời sống đồng bào gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn cả về vật chất và tinh thần.
Có thể bạn quan tâm!
- Hạn Chế Của Giữ Gìn Và Phát Huy Bản Sắc Văn Hóa Các Dân Tộc Thiểu Số Vùng Đông Bắc
- Hạn Chế Của Việc Giữ Gìn Và Phát Huy Các Giá Trị Văn Hóa Phi Vật Thể
- Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số vùng Đông Bắc Việt Nam hiện nay - 15
- Những Bất Cập Giữa Yêu Cầu Phát Triển Kinh Tế Với Yêu Cầu Giữ Gìn Và Phát Huy Bản Sắc Văn Hóa Các Dân Tộc Thiểu Số Vùng Đông Bắc.
- Giữ Gìn Và Phát Huy Bản Sắc Văn Hóa Các Dân Tộc Thiểu Số Bằng Việc Phát Huy Vai Trò Chủ Thể Của Đồng Bào Dân Tộc Thiểu Số
- Xây Dựng Đội Ngũ Làm Công Tác Văn Hóa Đáp Ứng Yêu Cầu Giữ Gìn, Phát Huy Bản Sắc Văn Hóa Các Dân Tộc Thiểu Số
Xem toàn bộ 190 trang tài liệu này.
Bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng ta tiếp tục chủ trương gìn giữ và phát huy BSVHDT, trong đó có chủ trương khôi phục những giá trị VH truyền thống của đồng bào các DTTS từng bị xóa bỏ và mất mát. Nhưng trong quá trình thực hiện, do nhận thức không đầy đủ về tính hai mặt của truyền thống, không phân tách được đâu là mặt tích cực, đâu là mặt tiêu cực nên đã khôi phục một cách tràn lan thiếu kiểm soát. Do đó, các tập quán lạc hậu, các hủ tục đã trỗi dậy và tác động, gây ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống tinh thần, vật chất của đồng bào các DTTS.
Trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ chuyên môn, đặc biệt là cán bộ chuyên môn ở cơ sở, trong nhận thức và giải quyết công việc còn lúng túng, do không được đào tạo bài bản, đúng chuyên ngành về VH DTTS nên còn hạn chế trong kiến thức về mảng này. Do đó, chưa có những cách làm hiệu quả, còn thụ động trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ liên quan đến giữ gìn, phát huy BSVH các DTTS. Vì thế, những hủ tục, tập quán lạc hậu vẫn tồn tại trong đời sống đồng bào các DTTS vùng sâu, vùng xa bên cạnh sự mai một, mất mát nhiều phong tục, tập quán tốt đẹp ở vùng thành phố, thị trấn và các vùng giáp ranh hay một số giá trị VH truyền thống bị biến dạng, lai tạp mà chưa có sự định hướng đúng đắn của các cơ quan chuyên môn tại cơ sở.
Nhà trường chưa nhận thức được đầy đủ vai trò, ý nghĩa của BSVH đối với sự tồn tại, phát triển của đồng bào các DTTS nên mới chỉ chú tâm đến giảng dạy kiến thức chuyên môn, chưa có sự quan tâm, sâu sát đến việc giáo dục, tuyên truyền các giá trị VH truyền thống làm nên BSVH của đồng bào các DTTS cho các em học sinh. Mặt khác, do bản thân các thầy cô một bộ phận là giáo viên từ miền xuôi lên cũng không hiểu biết rõ về BSVH của đồng bào các DTTS, không biết tiếng DT nên đó cũng là trở ngại lớn để các thầy cô tuyên truyền, giáo dục ý thức giữ gìn BSVHDT. Đối với các thầy cô bản thân là đồng bào DTTS, nhưng do thời gian phần lớn là học tập xa nhà nên không thường xuyên tham gia vào các hoạt động VH của gia đình, địa phương nên cũng có sự mờ nhạt về BSVH của DT mình, mặt khác, do có những hạn chế nhất định trong cách thức thực hiện nên đã làm suy giảm lòng nhiệt tình, sôi nổi của thầy cô trong việc tuyên truyền, giáo dục về BSVHDT cho các em học sinh.
Bản thân đồng bào các DTTS, đặc biệt là bộ phận sinh sống ở các thành phố, thị trấn và các vùng giáp ranh chỉ tập trung vào làm ăn, phát triển kinh tế nên thờ ơ, quay lưng lại với các giá trị VH truyền thống của DT mình, không nhận thức được các giá trị VH truyền thống mang đậm đà BSDT chính là nguồn vốn cho sự phát triển bền vững mà cho rằng đó là sản phẩm của xã hội phong kiến, là cổ hủ, là lạc hậu cần xóa bỏ. Các tầng lớp thanh niên sinh ra và lớn lên ở vùng này ít khi, thậm chí không được tham gia vào vào các hoạt động VH trong gia đình, dòng họ cho đến xã phường, thị trấn cho nên họ nhận thức mờ nhạt về các giá trị VH truyền thống của DT mình. Từ đó, không có ý thức giữ gìn, phát huy. Họ tiếp nhận cái mới nhanh hơn, mạnh hơn trong khi không có cái truyền thống làm nền tảng, làm màng lọc. Từ đó, tiếp nhận một cách ồ ạt, cả những mặt tích cực, cả những mặt phản VH, đi ngược lại thuần phong, mỹ tục, làm xói mòn BSVH của DT. Một bộ phận trẻ thoát ly ra khỏi cộng đồng DT do đi làm ăn hoặc học tập thì có tâm lí tự ti về VH của DT mình trước DT Kinh vì họ cho rằng VH của DTTS là lạc hậu, là cổ hủ. Vì vậy, họ thường che dấu, không dám thể hiện ra, dần dần lãng quên và học tập theo VH của người Kinh một cách hoàn toàn. Chính sự nhận thức chưa đầy đủ đó, cũng như chưa thực sự nhận thức hết được cái hay, cái đẹp trong BSVH của DT mình nên một bộ phận đồng bào
có thái độ “cổ súy” cho cái mới mà thờ ơ, quay lưng lại với những giá trị VH truyền thống của DT mình. Đó cũng là lý do những giá trị VH truyền thống tạo nên BSVHDT đang dần mai một, biến mất trong đời sống của đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc.
Thứ hai, hoạt động kém hiệu quả của các chủ thể trong việc giữ gìn, phát huy BSVH các DTTS.
Đảng, Nhà nước, các cơ quan chức năng và chính quyền địa phương các tỉnh vùng Đông Bắc đã có những cách thức giữ gìn và phát huy BSVH các DTTS khá phong phú và đa dạng. Tuy nhiên, hiệu quả của những cách thức này chưa cao, chưa đạt được kết quả như mong muốn.
Việc đầu tư cho mục tiêu phát triển VH ở vùng đồng bào các DTTS mặc dù đã tăng đáng kể trong những năm gần đây nhưng vẫn còn thấp so với sự đầu tư cho lĩnh vực kinh tế. Do đó, kinh phí đầu tư cho công tác nghiên cứu, sưu tầm, phục dựng, lưu giữ các giá trị VHDT chưa thực sự đáp ứng được nhu cầu của việc giữ gìn kho tàng VH các DTTS. Kinh phí hạn hẹp dẫn đến việc nghiên cứu, sưu tầm, kiểm kê, giữ gìn, phát huy những giá trị VH thiếu tính toàn diện và chưa kịp thời.
Công tác nghiên cứu, sưu tầm VH các DTTS được thực hiện bởi các tổ chức, các nhà khoa học, các cơ quan chuyên môn như sở VH ở các địa phương chưa theo một chương trình thống nhất, đang ở tình trạng vừa tản mạn, vừa trùng lặp, làm chậm tiến độ thực hiện và lãng phí thời gian, tiền bạc.
Khâu bảo tồn, lưu giữ tư liệu còn giản đơn, thiếu khoa học, trình độ chuyên môn của cán bộ làm công tác bảo tồn, tư liệu … còn hạn chế và thiếu phương tiện kỹ thuật, đặc biệt là phương tiện kỹ thuật hiện đại.
Trong một số giai đoạn, lĩnh vực, việc phát huy VH truyền thống các DTTS chưa được quán triệt đầy đủ nên trong chỉ đạo và thực hiện còn có biểu hiện ngần ngại, thiếu quyết đoán, né tránh nhất là những vấn đề khó khăn, phức tạp, nhạy bén có liên quan đến VH tâm linh, ngôn ngữ, phong tục…
Sưu tầm, nghiên cứu VH chưa gắn với duy trì và phát huy, khiến cho các giá trị VH được nghiên cứu, sưu tầm mới dừng lại ở sản phẩm được tư
liệu hóa chứ chưa thực sự được phát huy trong cộng đồng. Các bảo tàng ở địa phương vắng bóng khách tham quan tìm hiểu. Những dịp trưng bày, giới thiệu cũng thưa thớt người tham gia. Điều này có lẽ xuất phát từ thực trạng tuyên truyền, quảng bá, giới thiệu chưa cuốn hút, chưa làm nổi bật giá trị đặc sắc, độc đáo trong VH truyền thống của đồng bào các DTTS cũng như các tư liệu, hiện vật trưng bày kém đa dạng, phong phú, sự sắp xếp thiếu hợp lý… là những lý do khiến khách tham quan vắng bóng dần.
Quá trình phục dựng các giá trị VH phi vật thể như phong tục tập quán, tín ngưỡng tôn giáo, lễ hội, âm nhạc chưa thực sự đặt nó trong môi trường sản sinh và tồn tại vốn có của nó, tách khỏi môi trường VH sẽ làm mất đi giá trị và ý nghĩa nhân bản. Chẳng hạn, các nghi lễ Then, Mo, Tào, Pụt của người Tày, Nùng được sản sinh trong các dịp cúng mừng sinh nhật, mừng thọ, cầu yên giải hạn, trong các đám tang… Do đó, phục dựng phải gắn với chính môi trường nó xuất hiện thì mới phản ánh được hết ý nghĩa thực của nó.
Các điệu múa, điệu hát cũng xuất hiện trong những môi trường cụ thể và chỉ có trong môi trường đó, nó mới thể hiện được hết ý nghĩa của mình. Chẳng hạn hát quan làng (cỏ lẩu) của người Tày là dạng hát đối đáp trong đám cưới, hát then trong chúc tụng, trong cấp sắc, trong cầu mùa đều có nội dung riêng. Do đó, phục dựng lại các điệu múa, điệu hát một cách cơ học trong các lễ hội, làng VH như hiện tại cũng làm mất mát một phần nhất định cái hay, cái đẹp của di sản.
Nhiều địa phương chưa biết cách tuyên truyền, giáo dục để đồng bào nhận thức được hết cái hay, cái đẹp trong BSVH của DT mình để từ đó có ý thức giữ gìn và phát huy trong cuộc sống. Sự tuyên truyền, giáo dục được thực hiện qua loa, cho xong việc, chưa có trọng tâm, trọng điểm, chưa thực sự lấy đồng bào với BSVH độc đáo làm đối tượng trực tiếp để tuyên truyền, giáo dục. Do đó, bản thân đồng bào vẫn còn thờ ơ trước sự mai một dần của nhiều giá trị VH truyền thống của DT mình.
Các cơ quan VH, các cấp chính quyền, có nơi thì làm thay đồng bào trong việc giữ gìn và phát huy BSVH của họ, có nơi thì áp đặt những cách
119
thức cho đồng bào thực hiện, chưa đưa họ vào vị thế chủ thể trực tiếp trong việc giữ gìn và phát huy. Chính tình trạng “áp đặt”, làm thay, “quốc dân hóa” các hoạt động VH truyền thống đã làm lu mờ vai trò chủ thể của VH truyền thống, thậm chí làm cho đồng bào các DTTS bất bình, quay lưng với những gì được cho là BSVH của DT mình. Vì thế, đồng bào ở nhiều nơi còn xa lạ với chính BSVH của DT mình.
Việc giữ gìn và phát huy BSVH các DT thông qua phát huy vai trò của các nghệ nhân, khuyến khích họ truyền dạy, lan tỏa những giá trị VH truyền thống giàu bản sắc cho cộng đồng, cho các thế hệ là một mắt khâu quan trọng, song hiện tại các cơ quan, chính quyền địa phương chưa có chính sách bồi dưỡng và khuyến khích thỏa đáng, cho nên một bộ phận các nghệ nhân chưa thiết tha, tâm huyết với công việc truyền dạy. Đặc biệt, đối với các thầy cúng, do tâm lí tự ti khi một bộ phận cán bộ chuyên môn chưa khéo léo trong tuyên truyền, giáo dục quy họ về đội ngũ những người hoạt động mê tín dị đoan nên họ dần bỏ nghề, cùng theo đó là những kiến thức về các quy trình trong phong tục tập quán, tín ngưỡng tôn giáo, lễ hội… cũng bị mai một theo.
Sự lồng ghép nội dung giáo dục, tuyên truyền về BSVH của đồng bào các DTTS vào các chương trình chính khóa và ngoại khóa ở các nhà trường chưa thực sự phát huy tốt và hiệu quả đạt được chưa cao. Các hoạt động đó diễn ra chủ yếu về mặt hình thức, chưa thực sự khơi dạy được ở các em học sinh ý thức tìm hiểu về VH của DT mình cũng như ý thức giữ gìn, phát huy BSVH đó trong cộng đồng. Các thầy cô chưa thực sự tâm huyết với nhiệm vụ này, do đó chưa có những cách giáo dục, tuyên truyền một cách thuyết phục khiến cho hoạt động giữ gìn, phát huy BSVH của đồng bào các DTTS diễn ra trong các nhà trường chưa đạt hiệu quả.
Bản thân đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc, do điều kiện kinh tế còn khó khăn, họ phải tranh thủ vận dụng những điều mới mẻ do quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế thị trường đem đến để tập trung phát triển kinh tế nên cũng lãng quên việc thực hành cũng như trao truyền các giá trị VH truyền thống cho các thế hệ trong gia đình cũng như dòng họ, bản làng.
Một số nơi đồng bào vẫn duy trì, gìn giữ và phát huy bằng cách thực hành trong cuộc sống cũng như truyền dạy trong gia đình, trong các câu lạc
bộ nhưng không được thường xuyên, liên tục nên sự tiếp nhận của giới trẻ mờ nhạt, trong khi các yếu tố VH mới đầy hấp dẫn xuất hiện do quá trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế mang lại diễn ra một cách mạnh mẽ làm cho giới trẻ bị cuốn theo, lấn át những yếu tố truyền thống.
Như vậy, những cách thức mà chính quyền địa phương, cơ quan chức năng, và bản thân đồng bào đang thực hiện nhằm nỗ lực giữ gìn và phát huy BSVH của các DTTS vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập do đó hiệu quả đạt được chưa cao. BSVH của đồng bào các DTTS vẫn đang đứng trước nguy cơ mai một, biến dạng, nhiều giá trị VH truyền thống đã bị lùi về quá khứ nhường chỗ cho các yếu tố VH mới thâm nhập, làm lai tạp trong cách sống, cách nghĩ của đồng bào.
3.3.2. Một số vấn đề đặt ra
3.3.2.1.Khoảng cách giữa lý luận và thực tiễn trong việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số vùng Đông Bắc
Trong đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước luôn thể hiện chủ trương phát triển VH vùng đồng bào các DTTS, trong đó có nhiệm vụ giữ gìn, phát huy BSVH các DTTS, để BSVH thực sự trở thành điểm tựa, sức mạnh nội sinh để các DTTS vươn lên trong quá trình phát triển, hội nhập. Trong các chương trình mục tiêu quốc gia về VH, trong các đề án bảo tồn, phát huy di sản VH vật thể, phi vật thể của các DTTS, luôn đề ra mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp để thực hiện. Tuy nhiên, khi thực tiễn giải quyết lại gặp nhiều vướng mắc, không đạt được hiệu quả như mong muốn, chưa tương xứng với sự phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào các DTTS. Cụ thể, nhiều cấp ban ngành từ trung ương đến địa phương đã triển khai thực hiện các chương trình về VH vùng đồng bào các DTTS một cách cứng nhắc, thiếu linh hoạt, không bám sát vào tình hình cụ thể của từng vùng. Việc tổ chức thực hiện còn thiếu tập trung, chưa đồng bộ, không kiên quyết, dẫn đến thực trạng nhiều vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn vẫn tồn tại nhiều hủ tục, tập quán lạc hậu, hiện tượng mê tín, dị đoan có chiều hướng phát triển ảnh hưởng đến đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào, trong khi những năm 50 của thế kỷ XX, Đảng đã có chủ trương vận động bà con xóa bỏ các tập tục lạc hậu ở vùng đồng bào các DTTS.
Chủ trương giữ gìn và phát huy BSVH các DTTS được quán triệt trong các nghị quyết, chỉ thị và được cụ thể hóa bằng những kế hoạch, chương trình do Bộ VH thể thao và du lịch, Sở VH các tỉnh tổ chức thực hiện như: tổ chức các ngày hội VH các DTTS cấp vùng, cấp tỉnh, cấp huyện; tổ chức hội thảo chuyên đề bảo tồn và phát huy di sản VH vật thể, phi vật thể của đồng bào DTTS; tổ chức nghiên cứu, sưu tầm, phục dựng các giá trị VH truyền thống. Tuy nhiên, kết quả đạt được chưa cao, đối tượng tham dự trong ngày hội VH các DTTS cũng chỉ tập trung chủ yếu là các nghệ nhân, các đội văn nghệ quần chúng tại các địa phương. Các hội thảo thì chủ yếu là các nhà khoa học, các nhà quản lý trong lĩnh vực VH. Nghiên cứu, sưu tầm, phục dựng cũng chỉ đảm bảo giữ gìn ở trạng thái “tĩnh”, chưa vận dụng để phát huy thực sự trong đời sống của đồng bào. Do đó, nhiều giá trị VH đậm đà BSDT vẫn bị biến mất, mai một, mất bản sắc, biến dạng trước những tác động của nền kinh tế thị trường, xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.
Chủ trương giữ gìn, phát huy BSVH các DTTS thông qua nhiều mô hình kinh tế du lịch do các tỉnh, các địa phương thực hiện như “mô hình làng VH du lịch, làng VH cộng đồng, các tua du lịch qua các vùng di sản Việt Bắc…” nhưng hiệu quả đạt được từ mô hình này chưa cao. Nhiều giá trị truyền thống cũng chỉ được giữ gìn nhằm mục đích phát triển du lịch, chứ chưa được thực hiện xuất phát từ nhu cầu nâng cao đời sống tinh thần của đồng bào, do đó, để phục vụ thị hiếu khách du lịch, những giá trị VH này đã bị pha tạp, cải biến. Đồng bào chưa biết khai thác những giá trị VH truyền thống giàu bản sắc để phục vụ du lịch như tổ chức bán các sản phẩm đặc trưng của vùng trong các buổi chợ phiên, các khu du lịch. Hạn chế, kiểm soát các hàng hóa xuất xứ Trung Quốc đang được bán tràn lan ở khu du lịch. Đồng bào chú ý quá mức đến hiệu quả kinh tế từ du lịch mà chưa thực sự coi trọng đến hiệu quả giữ gìn, phát huy BSVH các DTTS. Việc tổ chức các buổi triển lãm, trưng bày các giá trị VH vật thể tại các bảo tàng địa phương chưa thu hút được đông đảo quần chúng tham quan, mới chủ yếu là học sinh các cấp trên địa bàn thăm quan theo tổ chức tại nhà trường dưới hình thức đi trải nghiệm. Do đó, chưa đạt hiệu quả trong việc tuyên truyền những giá trị VH đậm đà bản sắc đến với mọi tầng lớp, mọi thành phần DT.