Phương Pháp Tổ Chức Dạy Học Phải Phát Huy Tính Chủ Động Tích Cực Của Học Sinh

quốc cho học sinh, giáo viên cũng phải xác định rõ mục tiêu hướng đến của công việc đó là gì. Từ đó, xác định phương pháp, hình thức, nội dung để tổ chức dạy học cho phù hợp, hiệu quả.

Việc giáo dục ý thức về chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc trong dạy học lịch sử ở trường THPT là thực sự cần thiết. Qua các biện pháp giáo dục ý thức chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc trong dạy học lịch sử sẽ trang bị cho học sinh những kiến thức chính xác, cụ thể về chủ quyền quyền biển, đảo của Tổ quốc, qua đó giúp các em nhận thức sâu sắc vai trò, giá trị của biển, đảo đối với nhiệm vụ phát triển đất nước trong lịch sử cũng như trong hiện tại và tương lai. Nắm vững kiến thức về chủ quyền biển, đảo là cơ sở để học sinh tự hào về truyền thống yêu nước, bảo vệ chủ quyền đất nước của nhân dân ta, học sinh ý thức được trách nhiệm công dân trong việc bảo vệ sự toàn vẹn các lãnh thổ Tổ quốc.

1.1.3.2. Xác định đúng kiến thức cơ bản

Thể hiện ở hai yếu tố: nội dung và mức độ kiến thức cần cung cấp. Kiến thức cơ bản là những cái then chốt cần phải có, là cái có ý nghĩa nhất, có tác dụng nhất đối với sự phát triển nhân cách của học sinh. Do vậy, kiến thức cơ bản thường là những kiến thức đã được đề cập trong sách giáo khoa nhưng những gì phù hợp, cần thiết cho việc giáo dục học sinh thì cũng cần đưa vào bài học. Việc dạy học các nội dung về chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ đất nước cũng là những kiến thức như vậy.

Để làm rõ điều này, giáo viên phải xác định rõ mục tiêu và những ưu tiên khi tổ chức dạy học. Việc xác định đúng những kiến thức trong bài sẽ giúp bài giảng được cô đọng, súc tích và nâng cao chất lượng bài giảng. Bám sát đặc điểm đối tượng học sinh, những yêu cầu và nội dung cơ bản được đề cập trong chương trình môn học sẽ giúp giáo viên xác định đúng cần dạy cái gì, từ đó biết được phải dạy như thế nào. Nhờ vậy, giáo viên đưa học sinh đến được mục tiêu đã đặt ra


23

1.1.3.3. Phương pháp tổ chức dạy học phải phát huy tính chủ động tích cực của học sinh

“Đổi mới phương pháp dạy và học theo hướng tích cực chính là phát huy được tính tích cực nhận thức của học sinh. Nói cách khác là “Dạy học lấy hoạt động của người học làm trung tâm”[5.tr. 29].

Trong dạy và học tích cực, dưới sự thiết kế, tổ chức, định hướng của giáo viên, người học được tham gia vào quá trình hoạt động học tập từ khâu phát hiện vấn đề, tìm giải pháp cho vấn đề đặt ra, thực hiện các giải pháp và rút ra kết luận. Quá trình đó giúp người học lĩnh hội nội dung học tập đồng thời phát triển năng lực sáng tạo.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 153 trang tài liệu này.

Trong dạy học tích cực, học sinh là chủ thể hoạt động, gió viên đóng vai trò người tổ chức hướng dẫn, đòi hỏi giáo viên phải có kiến thức sâu, rộng, có kĩ năng sư phạm, đặc biệt phải có tình cảm nghề nghiệp thì việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực mới đạt hiệu quả.

Phương pháp dạy học nói chung và phương pháp dạy học Lịch sử nói riêng luôn là lĩnh vực đòi hỏi sự sáng tạo nhiều nhất. Trong điều kiện lịch sử mới, nhất là sự phát triển của khoa học hiện đại, đặc biệt là công nghệ - thông tin, cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước đã đòi hỏi và tạo điều kiện cho sự đổi mới công nghệ và phương pháp dạy học. Xu thế dạy học hiện nay đó là thực hiện quan điểm “lấy người học làm trung tâm”. Theo đó, toàn bộ quá trình dạy học phải hướng vào người học, phương pháp dạy học phải dựa trên đặc điểm của người học, để khai thác tối đa tiềm năng trí tuệ, tính tích cực và sáng tạo của học sinh và tập thể học sinh với mục tiêu là làm phát triển tối đa năng lực của người học; rèn luyện cho học sinh thói quen, năng lực tự học, tự nghiên cứu để có thể học thường xuyên và suốt đời.

Giáo dục ý thức chủ quyền biển, đảo của tổ quốc cho học sinh trong dạy học Lịch sử lớp 12 trung học phổ thông - 4

Tích cực đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của HS, tăng cường rèn luyện năng lực tự học của HS. Quan điểm và định hướng đổi mới phương pháp dạy học các môn, trong đó có môn Lịch sử, cần được tuân thủ nghiêm túc, sáng tạo đối với mọi GV. Đối


24

với GV lịch sử cần phải thực hiện tốt đi đầu trong việc thay đổi lối dạy học truyền thụ một chiều sang dạy học theo phương pháp dạy học tích cực, HS phải được hướng dẫn tìm tòi, khám phá, phát hiện, luyện tập, khái quát và xử lý thông tin lịch sử, đặc biệt chú ý đến rèn luyện năng lực tự học.

1.1.3.4. Sử dụng đa dạng các hình thức tổ chức dạy học

Tùy thuộc vào điều kiện, mục tiêu và chương trình giáo dục, giáo viên có thể lựa chọn nhiều hình thức tổ chức dạy học khác nhau. Mỗi hình thức tổ chức dạy học lại có những ưu và nhược điểm riêng.

Phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học Lịch sử

Phương pháp trực quan là hệ thống cách thức, biện pháp giáo viên sử dụng đồ dùng hoặc phương tiện trực quan nhằm huy động các giác quan của học sinh tham gia vào quá trình nhận thức, làm cho việc tiếp thu kiến thức trở nên dễ dàng và rèn luyện các kĩ năng cho học sinh.

Đồ dùng trực quan được chia thành 3 nhóm chính: nhóm đồ dùng trực quan hiện vật, đồ dùng trực quan tạo hình và đồ dùng trực quan quy ước.

Nhóm đồ dùng trực quan hiện vật gồm: những di tích lịch sử, cách mạng, những di vật khảo cổ và di vật của các thời kì lịch sử. Đây là một loại tài liệu gốc rất có giá trị, được lưu giữ trong các trung tâm lưu trữ, viện bảo tàng hoặc ở tại các di tích. Vì vậy trong điều kiện thuận lợi giáo viên nên tổ chức dạy học lịch sử ở các địa điểm trên.

Nhóm đồ dùng trực quan tạo hình gồm: mô hình, sa bàn và các loại đồ phục chế khác; Hình vẽ, tranh ảnh, phim tư liệu lịch sử lấy chủ đề về lịch sử.

Các loại đồ dùng trực quan tạo hình có khả năng khôi phục lại hình ảnh của con người, đồ vật, sự kiện lịch sử một cách cụ thể, sinh động và khá xác thực.

Nhóm đồ dùng trực quan quy ước gồm: Bản đồ lịch sử, niên biểu, đồ thị, sơ đồ...



25

- Bảng viết là phương tiện được sử dụng phổ biến nhất. Bảng viết gồm có hai loại chủ yếu: bảng viết phấn (màu đen hoặc xanh), bảng viết bằng bút dạ.

- Các phương tiện kĩ thuật gồm: máy chiếu hắt (Overhead), rađiô, máy ghi âm, video, tivi, máy tính...

Dạy học nêu vấn đề (dạy học nêu và giải quyết vấn đề).

Vấn đề này được nhiều nhà giáo dục học, giáo dục các bộ môn quan tâm nghiên cứu. Dựa vào ý kiến của các nhà khoa học chúng ta có thể rút ra những điểm chủ yếu về dạy học nêu vấn đề.

Dạy học nêu vấn đề không phải là một phương pháp cụ thể mà là các tư tưởng, nguyên tắc chỉ đạo việc tiến hành nhiều phương pháp dạy học. Nó được vận dụng trong tất cả các khâu của giờ học và là một kiểu dạy học dựa trên những quy luật của sự lĩnh hội tri thức và cách thức hoạt động một cách sáng tạo, có những nét cơ bản của sự tìm tòi khoa học. Bản chất của nó là tạo nên các tình huống có vấn đề và điều khiển người học giải quyết những vấn đề học tập đó. Nhờ vậy, nó đảm bảo cho người học lĩnh hội vững chắc kiến thức mới, kỹ năng mới hoặc thái độ tích cực.

Dạy học nêu vấn đề bao gồm các thành tố, trình bày nêu vấn đề, tình huống có vấn đề và bài tập nêu vấn đề (bài tập nhận thức).

Tình huống có vấn đề hay tình huống học tập là trạng thái tâm lý xuất hiện khi con người gặp phải tình huống khó khăn giải quyết bằng tri thức đã có, bằng cách thức đã biết không thể được mà đòi hỏi phải lĩnh hội tri thức mới và cách thức hành động mới. Có những loại tình huống có vấn đề sau:

Tình huống nghịch lý là tình huống vấn đề xuất hiện đứng trước một sự lựa chọn rất khó khăn giữa hai hay nhiều phương án giải quyết.

Tình huống bác bỏ là tình huống vấn đề đòi hỏi phải bác bỏ một luận điểm kết luận sai lầm. Để đạt được điều đó người học phải tìm ra được chỗ yếu, chỗ sai, chỗ thiếu chính xác của luận điểm hoặc kêt luận đó và chứng minh tính chất sai lầm của chúng.


26

Tình huống tại sao là tình huống phổ biến trong nghiên cứu khoa học và trong dạy học.

Các tình huống này đòi hỏi người học phải vận dụng kiến thức và kĩ năng vốn có để giải quyết vấn đề đặt ra. Người học phải tìm ra được các mối liên hệ đặc biệt là mối liên hệ nhân quả. Tìm ra được nguyên nhân dẫn đén kết quả đó.

Dạy học theo dự án: là một hình thức (phương pháp nghĩa rộng) dạy học, trong đó người học thực hiện một nhiệm vụ học tập phức hợp, có sự kết hợp giữa lí thuyết và thực hành, thực tiễn. Nhiệm vụ này được người học thực hiện với tính tự lực cao trong toàn bộ quá trình học tập, từ xác định mục đích, lập kế hoạch đến việc thực hiện dự án, thu thập thông tin, phân tích dữ liệu, kiểm tra, điều chỉnh, đánh giá quá trình và kết quả…Làm việc nhóm là dạng tổ chức hoạt động chủ yếu của dạy học dự án.

Dạy học theo dự án có các đặc điểm: định hướng thực tiễn, định hướng HS (hối thúc hành động), định hướng sản phẩm.

Có thể tổ chức dạy học theo dự án với trình tự sau:

+ Lựa chọn đề tài và xác định mục đích của dự án. Đây là công đoạn đầu tiên rất quan trọng. Trong giai đoạn này, giáo viên và học sinh cùng nhau đề xuất, xác định đề tài và mục đích của dự án.

+ Xây dựng kế hoạch thực hiện. Dưới sự hướng dẫn của giáo viên, học sinh xây dựng kế hoạch thực hiện dự án, trong đó cần xác định những công việc cần làn, thời gian dự kiến, vật liệu, kinh phí, phương pháp tiến hành và phân công công việc trong nhóm.

+ Thực hiện dự án: Các thành viên thực hiện kế hoạch đề ra, trong đó học sinh cần kết hợp các hoạt động trí tuệ với hoạt động thực tiễn, thực hành như thu thập thông tin qua báo chí, Internet, thư viện, thực nghiệm, quan sát; xử lí thông tin, thảo luận trong nhóm, trao đổi, xin ý kiến giáo viên.



27

+ Thu thập kết quả và công bố sản phẩm: học sinh cần tập hợp tất cả các kết quả thành một sản phẩm cuối cùng. Kết quả dự án có thể trình bày bằng nhiều hình thức khác nhau như báo cáo, thu hoạch, đóng kịch…

+ Đánh giá dự án

Giáo viên và học sinh đánh giá quá trình thực hiện và kết quả đạt được, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm.

Dạy học theo dự án góp phần gắn lí thuyết với thực tiễn, tư duy và hành động, nhà trường và xã hội, kích thích động cơ và hứng thú của người học. Đồng thời dạy học theo dự án còn góp phần phát huy tính tích cực, tính trách nhiệm sáng tạo, bền bỉ kiên nhẫn trong công việc của học sinh. Song để vận dụng dạy học theo dự án trong môn học GV cần lựa chọn nội dung phù hợp và hướng dẫn học sinh chuẩn bị chu đáo [6.tr.52].

1.1.3.5. Kiểm tra, đánh giá kết quả hoạt động và tổ chức rút kinh nghiệm

Trước yêu cầu đổi mới căn bản toàn diện giáo dục Việt Nam hiện nay “đổi mới kiểm tra, đánh giá được xác định là khâu đột phá trong đổi mới giáo dục”. Thực tế, từ trước đến nay trong mục tiêu của mỗi bài học đều bao gồm đầy đủ yêu cầu về kiến thức, kĩ năng, thái độ, nhưng trong quá trình dạy - học giáo viên chỉ chú trọng mục tiêu về kiến thức vì thi cử chủ yếu thiên về kiểm tra kiến thức sách vở, hàn lâm, không chú ý đến kiểm tra, đánh giá năng lực của học sinh, không kiểm tra xem các em đã đạt được kĩ năng gì trong quá trình học tập cũng như năng lực ứng dụng những kiến thức đã học vào thực tiễn cuộc sống ra sao. Học sinh cũng không có cơ hội được bày tỏ chính kiến, quan điểm, tình cảm cũng như thái độ của mình trước những vấn đề nảy sinh trong học tập cũng như trong cuộc sống thực tiễn. Cách kiểm tra, đánh giá như vậy kéo dài ảnh hưởng không nhỏ đến cách dạy, cách học và chất lượng giáo dục. Vì vậy, phương án đổi mới kiểm tra, đánh giá chú trọng đến năng lực của học sinh triển khai sẽ là bước đột phá để khắc phục những hạn chế này. Đồng thời, sẽ giúp cho việc dạy học gắn với cuộc sống thực tiễn hơn. Xu


28

hướng đổi mới kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh tập trung vào các hướng sau:

Một là chuyển từ chủ yếu đánh giá kết quả học tập cuối môn học, khóa học (đánh giá tổng kết) nhằm mục đích xếp hạng, phân loại sang sử dụng các loại hình thức đánh giá thường xuyên, đánh giá định kỳ sau từng chủ đề, từng chương nhằm mục đích phản hồi điều chỉnh quá trình dạy học (đánh giá quá trình);

Hai là chuyển từ chủ yếu đánh giá kiến thức, kỹ năng sang đánh giá năng lực của người học. Tức là chuyển trọng tâm đánh giá chủ yếu từ ghi nhớ, hiểu kiến thức sang đánh giá năng lực vận dụng, giải quyết những vấn đề của thực tiễn, đặc biệt chú trọng đánh giá các năng lực tư duy bậc cao như tư duy sáng tạo.

Ba là chuyển đánh giá từ một hoạt động gần như độc lập với quá trình dạy học sang việc tích hợp đánh giá vào quá trình dạy học, xem đánh giá như là một phương pháp dạy học.

Bốn là tăng cường sử dụng công nghệ thông tin trong kiểm tra, đánh giá: sử dụng các phần mềm thẩm định các đặc tính đo lường của công cụ (độ tin cậy, độ khó, độ phân biệt, độ giá trị) và sử dụng các mô hình thống kê vào xử lý phân tích, lý giải kết quả đánh giá.

Với những xu hướng trên, đánh giá kết quả học tập các môn học, hoạt động giáo dục của học sinh ở mỗi lớp và sau cấp học trong bối cảnh hiện nay cần phải:

- Dựa vào cứ vào chuẩn kiến thức, kĩ năng (theo định hướng tiếp cận năng lực) từng môn học, hoạt động giáo dục từng môn, từng lớp; yêu cầu cơ bản cần đạt về kiến thức, kĩ năng, thái độ (theo định hướng tiếp cận năng lực) của học sinh của cấp học.



29

- Phối hợp giữa đánh giá thường xuyên và đánh giá định kì, giữa đánh giá của giáo viên và tự đánh giá của học sinh, giữa đánh giá của nhà trường và đánh giá của gia đình, cộng đồng.

- Kết hợp giữa hình thức đánh giá bằng trắc nghiệm khách quan và tự luận nhằm phát huy những ưu điểm của mỗi hình thức đánh giá này.

- Có công cụ đánh giá thích hợp nhằm đánh giá toàn diện, công bằng, trung thực, có khả năng phân loại, giúp giáo viên và học sinh điều chỉnh kịp thời việc dạy và học.

Việc đổi mới công tác đánh giá kết quả học tập môn học của giáo viên được thể hiện qua một số đặc trưng cơ bản sau:

- Xác định được mục đích chủ yếu của đánh giá kết quả học tập là so sánh năng lực của học sinh với mức độ yêu cầu của chuẩn kiến thức và kĩ năng (năng lực) môn học ở từng chủ đề, từng lớp học, để từ đó cải thiện kịp thời hoạt động dạy và hoạt động học.

- Tiến hành đánh giá kết quả học tập môn học theo ba công đoạn cơ bản là thu thập thông tin, phân tích và xử lý thông tin, xác nhận kết quả học tập và ra quyết định điều chỉnh hoạt động dạy, hoạt động học.

Cần sử dụng phối hợp các hình thức, phương pháp kiểm tra, đánh giá khác nhau. Kết hợp giữa kiểm tra miệng, kiểm tra viết và bài tập thực hành. Kết hợp giữa trắc nghiệm tự luận và trắc nghiệm khách quan. Hiện nay ở Việt Nam có xu hướng chọn hình thức trắc nghiệm khách quan cho các kỳ thi tốt nghiệp hay thi tuyển đại học. Trắc nghiệm khách quan có những ưu điểm riêng cho các kỳ thi này. Tuy nhiên trong đào tạo thì không được lạm dụng hình thức này. Vì nhược điểm cơ bản của trắc nghiệm khách quan là khó đánh giá được khả năng sáng tạo cũng như năng lực giải quyết các vấn đề phức hợp

1.1.4. Nội dung giáo dục ý thức chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc trong dạy học Lịch sử ở trường phổ thông

Nhận thức được tầm quan trọng biển, đảo của Tổ quốc đối với lịch sử dân tộc và thời đại ngày nay, với chức năng và nhiệm vụ giáo dục của nhà


30

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 22/04/2023