30
thống quan hệ xã hội được thiết lập. Xét về nguồn gốc xã hội, trước hết và cơ bản nhất là lao động và ngôn ngữ. Chính nhờ lao động và ngôn ngữ mà con người có khả năng vượt qua loài động vật để tiến hoá và phát triển thành người. C.Mác và Ph.Ăngghen khẳng định:
Bản thân con người bắt đầu bằng tự phân biệt với súc vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình - đó là một bước tiến do tổ chức cơ thể con người quy định. Sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình, như thế con người đã gián tiếp sản xuất ra chính đời sống vật chất của mình [98, tr.29].
Sự tồn tại và phát triển của con người luôn chịu sự chi phối bởi các nhân tố xã hội và các quy luật xã hội; bởi hoàn cảnh lịch sử, bởi môi trường nơi con người sinh sống và tồn tại.
Trong hai mặt: sinh học và xã hội của con người thì mặt sinh học là điều kiện cần, còn xã hội là điều kiện đủ. Do đó, con người luôn luôn giữ vai trò chủ thể trong mọi hoạt động. Tuy nhiên, vai trò này phụ thuộc vào trình độ trí tuệ của mỗi cá nhân.
Cá nhân là một chỉnh thể đơn nhất với một hệ thống những đặc điểm cụ thể, không lặp lại, khác biệt với những cá nhân khác về mặt sinh học cũng như về mặt xã hội, cá nhân cũng là sự thống nhất của hai mặt: mặt sinh vật và mặt xã hội. Về mặt sinh vật mỗi cá nhân là một cơ thể sống đơn nhất với những cấu trúc cơ thể và đặc điểm tâm sinh lý riêng biệt.
Về mặt xã hội, mỗi cá nhân là thành viên của xã hội và không bao giờ tách khỏi xã hội. Quan hệ giữa xã hội và cá nhân là hiện tượng lịch sử, bao giờ quan hệ này cũng biến đổi và phát triển trong lịch sử. Xã hội được tạo ra từ những mối quan hệ của các cá nhân, mối quan hệ của hoạt động nhóm, cộng đồng, tập đoàn xã hội do mục đích và yêu cầu lịch sử đặt ra. Do đó, mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội trong xã hội cổ đại không giống như trong xã hội trung đại, hay xã hội hiện đại.
31
Mỗi cá nhân bao giờ cũng có đời sống riêng, với những mối quan hệ xã hội riêng, kinh nghiệm riêng, có nhu cầu lợi ích riêng. Chính vì vậy, không bao giờ được cào bằng giữa các cá nhân với nhau. Tuy nhiên, các cá nhân trong xã hội dù có khác biệt nhau đến đâu đi nữa thì cũng mang những cái chung: là thành viên xã hội, mang bản chất xã hội, chịu sự tác động của các quy luật xã hội và không thể sống ngoài xã hội.
Như vậy, cá nhân là một khái niệm dùng để chỉ một cá thể người có sự thống nhất giữa mặt sinh vật và mặt xã hội, chịu sự tác động to lớn trong quá trình phát triển của xã hội, là chủ thể của hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Có thể bạn quan tâm!
- Giáo dục giá trị đạo đức truyền thống với việc hình thành và phát triển nhân cách cho sinh viên khu vực Tây Nguyên trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay - 2
- Những Công Trình Nghiên Cứu Liên Quan Đến Toàn Cầu Hóa, Tác Động Của Toàn Cầu Hoá Đối Với Nhân Cách, Lối Sống, Đạo Đức Của Con Người Việt Nam
- Những Công Trình Nghiên Cứu Về Tác Động Của Toàn Cầu Hoá Đến Đời Sống Của Đồng Bào Dân Tộc Tây Nguyên Nói Chung Và Thanh Niên - Sinh Viên Tây Nguyên
- Toàn Cầu Hoá Và Tầm Quan Trọng Của Giáo Dục Giá Trị Đạo Đức Truyền Thống Nhằm Hình Thành Và Phát Triển Nhân Cách Sinh Viên Việt Nam Trong Bối Cảnh
- Tầm Quan Trọng Của Giáo Dục Giá Trị Đạo Đức Truyền Thống Nhằm Hình Thành Và Phát Triển Nhân Cách Sinh Viên Việt Nam Trong Bối Cảnh Toàn Cầu Hoá
- Giá Trị Đạo Đức Truyền Thống Và Một Số Giá Trị Đạo Đức Truyền Thống Dân Tộc Cần Phải Giáo Dục Cho Sinh Viên Việt Nam Hiện Nay
Xem toàn bộ 182 trang tài liệu này.
Liên quan đến khái niệm con người, cá nhân còn có khái niệm nhân cách. Nhân cách là một thuật ngữ thường được sử dụng rộng rãi trong đời sống hàng ngày. Người ta thường đề cao hiểu biết, sáng tạo nhân cách trong các hoạt động xã hội, trong hành vi ứng xử giữa con người với con người. Do vậy, nhân cách đã được rất nhiều ngành khoa học quan tâm trong đó có triết học.
Trong thời kỳ cổ đại, đã có một số nhà tư tưởng ít nhiều đã bàn về vấn đề nhân cách, chẳng hạn như Arixtôt đã đề cập đến vai trò của xã hội và giáo dục đối với việc hình thành và phát triển nhân cách con người. Trong lúc đó, Platon cho rằng: nhân cách là cái gì đó phi vật chất, là kết quả của sự bắt chước “ý niệm”, chỉ là cái bóng của “ý niệm” chứ không phải là bản thân “ý niệm”. Quan niệm tôn giáo cho rằng: nhân cách là yếu tố tinh thần đầu tiên của tồn tại người và chúa là nhân cách tối cao có trước và chi phối nhân cách con người.
Chủ nghĩa duy vật trước Mác thường có xu hướng tuyệt đối hoá mặt tâm lý, sinh lý, xem nhẹ mặt xã hội hay tách rời mặt xã hội và mặt tự nhiên của nhân cách. Lamêtơri (1709 - 1751) cho rằng: nhân cách con người chủ yếu phụ thuộc vào yếu tố sinh học, còn yếu tố xã hội được xem là thứ yếu.
Trong triết học Phương Đông người ta không bàn trực tiếp đến khái
niệm nhân cách, cấu trúc nhân cách, nhưng các triết gia tiêu biểu của nền triết
32
học phương Đông ngay thời đại cổ đại đã đưa ra nhiều kiến giải sâu sắc về bản chất, bản tính và đạo làm người. Tư tưởng triết học “nhân sinh” của Khổng Tử và các học trò của ông sau này, chữ “nhân” đã được nói đến nhiều lần. Người có “nhân” đồng nghĩa với người hoàn thiện nhất, nên “nhân” là nghĩa rộng nhất của đạo làm người. Khổng Tử nói: “Khắc kỷ, phục lễ vi nhân” = vượt lên trên mình, phục tùng kỷ luật trở thành Người - con người nhân cách [125, tr.251-152].
Cùng với triết học, tâm lý học cũng nghiên cứu về nhân cách. Các nhà tâm lý học quan niệm nhân cách là: “Hệ thống những phẩm giá xã hội của cá nhân thể hiện những phẩm chất bên trong của cá nhân, mối quan hệ qua lại của cá nhân với cá nhân khác, với tập thể, xã hội, với thế giới xung quanh và mối quan hệ của các cá nhân với công việc trong quá khứ, hiện tại và tương lai” [113, tr.233]. Định nghĩa này, đã cho chúng ta thấy được bản chất xã hội của nhân cách đồng thời nêu lên được cấu trúc và cơ chế phát triển của nhân cách với tư cách là con người làm chủ tự nhiên, làm chủ xã hội và làm chủ ngay chính bản thân mình.
Trên đây chưa phải là tất cả, nhưng chỉ bấy nhiêu đó cũng đủ cho thấy để có được một quan niệm đầy đủ về nhân cách là một vấn đề không đơn giản. Hơn nữa như Ph.Ăngghen viết trong tác phẩm “Chống Đuyrinh” rằng: đúng về mặt khoa học mà nói, thì mọi định nghĩa đều chỉ có một giá trị nhỏ thôi. Từ vấn đề nhân cách được lý giải như trên, chúng tôi đồng ý với quan niệm cho rằng: Nhân cách như là một chỉnh thể cá nhân có tính lịch sử - cụ thể, tham gia vào hoạt động thực tiễn, đóng vai trò của chủ thể nhận thức và cải tạo thế giới, chủ thể của quyền hạn và nghĩa vụ, của những chuẩn mực đạo đức, thẩm mỹ và mọi chuẩn mực xã hội khác [115, tr.19]. Khi nói đến nhân cách của con người là nói đến những vấn đề:
Thứ nhất, con người hiện thực, gắn với điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể.
Thứ hai, nhân cách của từng cá nhân riêng biệt, có những mối quan hệ
mật thiết với tự nhiên, xã hội.
33
Thứ ba, đề cập đến các chuẩn mực xã hội (đạo đức, thẩm mỹ) do chính điều kiện lịch sử - xã hội của mỗi thời đại, mỗi quốc gia quy định.
Như vậy, khái niệm nhân cách thường gắn liền với khái niệm con người, và những phẩm chất đạo đức mà mỗi con người cần phải có. Để có một khái niệm nhân cách toàn diện cần phải xuất phát từ những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về bản chất xã hội của con người.
Xét về mặt cấu trúc, nhiều ý kiến cho rằng nhân cách gồm hai mặt thống nhất với nhau là phẩm chất và năng lực, hay nói cách khác nhân cách là sự thống nhất của phẩm chất đạo đức và năng lực.
Vấn đề phẩm chất đạo đức và năng lực lâu nay vẫn có những ý kiến khác nhau. Có ý kiến cho rằng phẩm chất đạo đức là cái gốc quan trọng, quyết định toàn bộ nhân cách của con người. Nhưng cũng không ít ý kiến khẳng định trong điều kiện của nền kinh tế thị trường thì không chỉ có đạo đức là đủ, mà điều cần thiết là năng lực.
Chúng tôi cho rằng cả phẩm chất đạo đức và năng lực là nội dung quan trọng trong cấu trúc nhân cách. Đức được coi là gốc, nền tảng của nhân cách hay còn gọi là hạt nhân cơ bản của nhân cách con người. Thành phần của Đức bao gồm: “1) phẩm chất xã hội (thế giới quan, niềm tin, lý tưởng, thái độ chính trị - xã hội, trong đó thế giới quan là thuộc tính kết cục chủ yếu của nhân cách, là đặc quyền của con người vươn tới tầm cao của tinh thần) (A.G.Xpirkin) 2) phẩm chất cá nhân (còn gọi là đạo đức, tư cách của cá nhân). 3) Phẩm chất ý chí (tính kỷ luật, tính mục đích, tính quả quyết, tính kiên trì, tính dũng cảm). 4) cung cách ứng xử (tác phong lễ tiết, tính khí…của con người)” [115, tr.21].
Khi nói đến năng lực là chúng ta muốn nói đến năng lực thích ứng với xã hội, các năng lực đó bao gồm: 1) năng lực xã hội hoá là khả năng tích luỹ tri thức và vận dụng tri thức đó vào giải quyết các vấn đề của cuộc sống. 2) năng lực chủ thể hoá là khả năng thể hiện tính độc đáo, sáng tạo của mỗi cá
34
nhân để lại dấu ấn cho cộng đồng và xã hội. 3) năng lực hành động thể hiện
sự chủ động trong hành động để đạt được mục tiêu được đề ra.
Sự thống nhất giữa phẩm chất đạo đức và năng lực ở mỗi cá nhân có được chủ yếu là do quá trình đào tạo, rèn luyện của bản thân mỗi cá nhân đó tạo nên. Khi nói đến sự thống nhất này, Hồ Chí Minh thường đề cập đến mối quan hệ giữa “hồng” và “chuyên”, thể hiện quyết tâm xây dựng con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa “vừa hồng, vừa chuyên”.
2.1.2. Một số nhân tố cơ bản tác động đến sự hình thành nhân cách
Nhân cách của mỗi cá nhân không phải hình thành một lúc, một lần là xong mà diễn ra theo một quá trình, suốt cả cuộc đời và chịu sự tác động, chi phối của nhiều yếu tố, trong đó nổi lên mấy yếu tố cơ bản sau đây:
Thứ nhất, quá trình hình thành và phát triển nhân cách luôn gắn liền
với giáo dục.
Quá trình giáo dục và tự giáo dục luôn là một nhân tố tác động quan trọng nhất đối với quá trình phát triển nhân cách của con người, định hướng các giá trị cuộc sống cho con người. Điều này, được cắt nghĩa bởi các lý do sau đây:
Một là, quá trình học tập của một con người chiếm một tỷ lệ rất lớn trong cuộc đời của họ, họ học tập từ lúc mới sinh ra cho đến lúc trưởng thành và lúc về già. Con người tham gia vào các quá trình hoạt động của xã hội, để thích ứng với môi trường xã hội thì buộc con người phải tham gia quá trình học tập, học ở nhà trường, học ở mọi người. Khi đề cập đến nhiệm vụ của Thanh niên nói chung, của đoàn Thanh niên Cộng sản nói riêng, V.Lênin nói rằng, Thanh niên bây giờ chỉ có một nhiệm vụ, nhiệm vụ đó có thể tóm gọn bằng một từ, nhiệm vụ đó là: học tập. Hồ Chí Minh quan niệm học tập là sự nghiệp suốt đời của mỗi con người (học ở nhà trường, học ở nhân dân, học ở thực tiễn cuộc sống). Chính vì vậy, tất cả những gì tốt đẹp của giáo dục, tự giáo dục đều có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với sự hình thành và phát triển nhân cách của mỗi con người.
35
Hai là, trong môi trường giáo dục con người trưởng thành về mặt nhận thức và hoàn thiện dần về nhân cách. Quá trình giáo dục trang bị cho con người tri thức về tự nhiên và xã hội, các kỹ năng nghề nghiệp và kỹ năng sống, những giá trị về văn hoá nhân loại, văn hoá dân tộc, giá trị đạo đức, pháp luật, tôn giáo, chính trị, khoa học công nghệ.v.v. Nhờ những tri thức con người tiếp thu được trong quá trình giáo dục không chỉ giúp con người nhận thức được thế giới mà còn cải tạo thế giới, yếu tố thực sự góp phần vào việc hình thành và phát triển nhân cách của con người. Mặt khác, thông qua giáo dục mà các thế hệ nối tiếp nhau, kế thừa các thành tựu văn minh nhân loại để hình thành nên nhân cách.
Ba là, giáo dục là môi trường xã hội đặc biệt, trong đó diễn ra nhiều tương tác xã hội mà chủ thể chính là những con người. Đó là mối tương tác giữa người dạy và người học, giữa bạn bè cùng trang lứa, giữa các thế hệ để truyền tải tri thức cho nhau, kế thừa kinh nghiệm của nhau. Chính mối tương tác này, tác động lên cuộc sống hàng ngày của mỗi người tạo nên quá trình hình thành nhân cách, ngăn chặn được những tác động tiêu cực, phản giá trị của cuộc sống.
Giáo dục là một hiện tượng xã hội, trong đó một tập hợp xã hội (nhóm người) đã tích luỹ được vốn kinh nghiệm nhất định truyền đạt lại cho nhóm xã hội khác nhằm giúp họ tham gia vào đời sống xã hội, giúp họ hiểu biết các chuẩn mực, khuôn mẫu, giá trị xã hội để xây dựng thành nhân cách phù hợp với sự đòi hỏi của lợi ích xã hội [71, tr.5].
Có thể nói, sự hình thành và phát triển nhân cách con người, cả về mặt năng lực lẫn phẩm chất đạo đức phụ thuộc rất lớn vào giáo dục. Những tố chất bẩm sinh - di truyền có thể được coi là điều kiện cần thiết ban đầu cho sự phát triển năng lực, tài năng. Nhưng sự phát triển năng lực của con người, của nhân cách phụ thuộc vào một yếu tố khác, đó là yếu tố xã hội - lịch sử, trong đó giáo dục giữ vai trò quan trọng. Trong “Hệ tư tưởng Đức” C.Mác và Ph.Ăngghen đã viết
36
rằng: “Một cá nhân đại loại như Ra-pha-en có thể phát triển được tài năng của mình hay không - điều đó hoàn toàn tùy thuộc vào nhu cầu, mà nhu cầu thì lại tùy thuộc vào phân công lao động và tùy thuộc vào những điều kiện giáo dục con người do sự phân công ấy sản sinh ra” [98, tr.574].
Thứ hai, quá trình hình thành và phát triển nhân cách chịu sự tác động
qua lại giữa cá nhân và xã hội.
Xã hội hoá cá nhân thực chất là quá trình cá nhân tham gia vào đời sống xã hội. Đây là quá trình xã hội tác động tới cá nhân, làm cho cá nhân hoà nhập và thích nghi với đời sống của cộng đồng, trở thành thành viên của cộng đồng. Chủ nghĩa Mác - Lênin luôn quan tâm tới quá trình con người tham gia vào các hoạt động xã hội trong việc hình thành và phát triển nhân cách phù hợp với các giá trị chuẩn mực xã hội. Mọi chuẩn mực và giá trị xã hội được hình thành từ hoạt động lao động của con người. Quá trình đó làm nảy sinh bản tính người trong quan hệ xã hội và bản chất xã hội của con người. Cơ sở cho mọi lối sống đều được nghiên cứu từ tính chất và trình độ hoạt động lao động. Từ khi xuất hiện các quan hệ sản xuất thì nhiều quan hệ giao tiếp khác cũng ra đời. Trong quá trình tham gia của cá nhân vào hoạt động của xã hội, những giá trị, các chuẩn mực xuất hiện, cùng với sự quy định của lịch sử đã tác động to lớn tới việc hình thành và phát triển nhân cách.
Sự hình thành và phát triển nhân cách luôn chịu sự chi phối bởi các quan hệ, trong đó quan hệ lợi ích giữ vai trò quan trọng. Bởi vì, khi đánh giá nhân cách của một con người thì người ta luôn đặt trong mối quan hệ lợi ích của cộng đồng, tập thể, lợi ích cá nhân và lợi ích của quốc gia dân tộc.
Con người khi mới sinh ra nhân cách chưa xuất hiện, nhân cách chỉ có ở mỗi con người khi con người tham gia vào quá trình hoạt động xã hội, các hoạt động đó đặt trong mối quan hệ nhiều chiều (gia đình - nhà trường - xã hội). Đây chính là quá trình con người tham gia vào quá trình giao tiếp, hoạt động xã hội để làm biến đổi con người không chỉ về mặt sinh học mà còn biến
37
đổi về mặt xã hội. Sự biến đổi đó chính là quá trình hình thành và phát triển nhân cách con người.
Thứ ba, sự hình thành và phát triển nhân cách con người chịu sự chi phối bởi các yếu tố văn hoá - xã hội trong các giai đoạn lịch sử cụ thể.
Con người đã sáng tạo ra các giá trị văn hoá - xã hội và ngược lại các giá trị văn hoá - xã hội lại tác động đến quá trình phát triển nhân cách. Xã hội nào cũng hình thành các giá trị văn hoá chứa đựng những phong tục tập quán, lối sống, những điều cấm kỵ tạo nên các chuẩn mực của văn hoá - xã hội. Những giá trị, chuẩn mực của văn hoá - xã hội được phản ánh qua thế giới quan, tri thức hiểu biết về xã hội, ý thức thẩm mỹ, giá trị đạo đức…Những giá trị chuẩn mực này tác động tới sự hình thành và phát triển nhân cách của con người thông qua giáo dục và tự giáo dục.
Mối quan hệ giữa nhân cách và các giá trị văn hoá truyền thống không phải là một chiều mà là quan hệ biện chứng: mỗi cá nhân, một mặt tiếp nhận sự tác động của các giá trị văn hoá truyền thống một cách tích cực, có cải biến, chọn lọc, kế thừa và chuyển hoá để biến thành cái “tôi” bên trong; mặt khác, thông qua hoạt động tích cực của mỗi cá nhân lại tác động trở lại làm phong phú thêm các giá trị văn hoá truyền thống.
Lịch sử phát triển của xã hội loài người diễn ra vô cùng phức tạp, các giá trị chuẩn mực xã hội luôn đan xen, tác động lẫn nhau, ảnh hưởng tới quá trình hình thành và phát triển của nhân cách con người. Khi nhân cách được hình thành, con người trở thành chủ thể xã hội và thúc đẩy xã hội phát triển. Sự phát triển nhân cách của chủ thể dựa vào tiếp thu các giá trị văn hoá truyền thống dân tộc và các chuẩn mực xã hội khác, trên cơ sở của một phương thức sản xuất nhất định của xã hội đó.
Thứ tư, quá trình hình thành và phát triển nhân cách chịu sự chi phối
của đạo đức - nhân tố cốt lõi trong cấu trúc nhân cách.
Đạo đức là một trong những yếu tố cấu thành nhân cách và là nòng cốt, hạt nhân của nhân cách. Có thể nói thành tố đạo đức là phẩm chất đầu tiên của