thực hiện nghĩa vụ của mình. Mặt khác các DNBH phải quản lý hiệu quả phí thu được. Các DNBH quản lý rủi ro thông qua đa dạng hóa rủi ro và luật số lớn bằng các kỹ thuật khác nhau. Trên thực tế phần lớn số phí bảo hiểm thu trước được DNBH sử dụng để đầu tư trong thời gian tạm thời nhàn rỗi. Việc đầu tư nếu không được quản lý, giám sát sẽ có thể thoát ly hoàn toàn khỏi mục đích cũng như “trạng thái sẵn sàng” cho việc bồi thường, trả tiền bảo hiểm. Do đó, Nhà nước thường qui định các hình thức đầu tư, mức độ đầu tư và thực hiện giám sát hoạt động đầu tư.
- Việc gia tăng cũng như sự sáp nhập của các của các tập đoàn tài chính ngày càng nhiều và phức tạp. Tầm quan trọng của bảo hiểm đối với sự ổn định tài chính ngày càng tăng. Xu hướng này yêu cầu đối với cơ quan giám sát bảo hiểm cần tập trung vào các rủi ro lớn hơn. Bên cạnh đó, cũng giống như các ngành khác trong thị trường tài chính, thị trường bảo hiểm đang có những thay đổi ứng với sự thay đổi của trình độ phát triển kinh tế, sự biến đổi của tự nhiên và các hoạt động liên quan đến các quốc gia và khu vực đòi hỏi cơ quan giám sát bảo hiểm phải hiểu và phát hiện ra những rủi ro có thể phát sinh. Các nhà quản lý, giám sát phải kết hợp với nhau ở tầm quốc gia và quốc tế nhằm đảm bảo các DNBH được giám sát hiệu quả, đảm bảo hoạt động kinh doanh và người tham gia bảo hiểm được bảo vệ, duy trì thị trường tài chính ổn định, tránh rủi ro hệ thống được chuyển giao từ ngành này sang ngành khác hoặc từ lãnh thổ này sang lãnh thổ khác.
Như vậy, trên nhiều phương diện, giám sát của Nhà nước đối với thị trường bảo hiểm phi nhân thọ là một tất yếu khách quan vì mục tiêu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia bảo hiểm, người được bảo hiểm, người được hưởng quyền lợi bảo hiểm; đảm bảo sự phát triển bền vững và bảo hộ lợi ích chính đáng của các doanh nghiệp bảo hiểm; điều chỉnh, thúc đẩy hoạt động kinh doanh bảo hiểm phát triển theo yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
1.2.1.3. Mục tiêu giám sát thị trường bảo hiểm phi nhân thọ
Trong nguyên tắc giám sát bảo hiểm số 1 “Mục tiêu, quyền hạn, trách nhiệm của người giám sát” do IAIS ban hành đã qui định mục tiêu của hoạt động giám sát thị trường bảo hiểm. Đây cũng chính là mục tiêu giám sát chung mà các cơ quan giám sát thị trường bảo hiểm hướng tới, đó là “Mục tiêu của hoạt động giám sát là duy trì một thị trường công bằng, an toàn, ổn định, các định chế bảo hiểm phát triển bền vững và bảo vệ người tham gia bảo hiểm” [15], điều đó được thể hiện:
- Duy trì thị trường bảo hiểm phi nhân thọ công bằng, an toàn, ổn định. Điều này được thể hiện ở khả năng vận hành của thị trường, sự đóng góp hiệu quả của các nguồn lực trong thị trường.Thông qua các chỉ tiêu như tốc độ tăng trưởng của thị trường, qui mô của thị trường, tính minh bạch của hệ thống thông tin cung cấp trên thị trường;
Có thể bạn quan tâm!
- Giám sát thị trường bảo hiểm phi nhân thọ ở Việt Nam - 1
- Giám sát thị trường bảo hiểm phi nhân thọ ở Việt Nam - 2
- Các Thành Tố Của Thị Trường Bảo Hiểm Phi Nhân Thọ
- Biên Khả Năng Thanh Toán Ii Dựa Trên Ba Trụ Cột Chính
- Phương Thức Giám Sát Thị Trường Bảo Hiểm Phi Nhân Thọ
- Một Số Bài Học Kinh Nghiệm Về Giám Sát Thị Trường Bảo Hiểm Phi Nhân Thọ Của Các Nước Trên Thế Giới
Xem toàn bộ 202 trang tài liệu này.
- Đảm bảo sự phát triển lành mạnh của các định chế trong thị trường. Việc giám sát đảm bảo các định chế trong thị trường tuân thủ các chuẩn mực và các qui định do các chủ thể giám sát đặt ra. Các định chế có đủ sức chống đỡ với các biến động của thị trường, các rủi ro, các cú sốc về chính sách. Nâng cao tính cạnh tranh lành mạnh của thị trường, giúp cho thị trường ngày càng phát triển ổn định;
- Bảo vệ người tiêu dùng, điều chỉnh sự không hoàn hảo của thị trường do tình trạng thông tin bất cân xứng gây ra. Cho phép người tiêu dùng tiếp cận được các sản phẩm với mức giá tương xứng với chất lượng của sản phẩm, giữa mức sinh lời và rủi ro. Việc giám sát thị trường đảm bảo cho quyền lợi của người tiêu dùng không bị xâm hại bởi năng lực tư vấn của các trung gian trên thị trường, hoặc do mục đích cục bộ của phía doanh nghiệp.
1.2.1.4. Đối tượng chịu sự giám sát
Đối tượng chịu sự giám sát là các chủ thể tham gia thị trường (Người bán, người mua, trung gian bảo hiểm) và quá trình trao đổi sản phẩm trên thị trường.
Việc giám sát đối với người bán là giám sát hoạt động của DNBH, doanh nghiệp tái bảo hiểm. Việc giám sát người bán thực hiện kể từ khi người bán bắt đầu gia nhập thị trường đến khi kết thúc hoạt động trên thị trường.
Giám sát các trung gian bảo hiểm, bao gồm đại lý bảo hiểm và môi giới bảo hiểm. Việc giám sát môi giới bảo hiểm được thực hiện kể từ khi DN MGBH gia nhập thị trường đến khi kết thúc hoạt động trên thị trường. Đối với đại lý bảo hiểm, việc giám sát các đại lý bảo hiểm thực hiện qua việc giám sát điều kiện đại lý, hoạt động đào tạo đại lý, trả hoa hồng đại lý của DNBH đối với đại lý bảo hiểm vì đại lý bảo hiểm là các tổ chức, cá nhân được DNBH ủy quyền trên cơ sở hợp đồng đại lý bảo hiểm để thực hiện hoạt động đại lý bảo hiểm, đại lý bảo hiểm là người đại diện cho DNBH trong việc phân phối sản phẩm.
Người mua (bên mua bảo hiểm) là một tổ chức hoặc cá nhân có các địa vị pháp lý khác nhau, trong xã hội họ bị chi phối bởi nhiều mối quan hệ và qui định pháp luật
khác nhau. Trong hành vi mua bán trên thị trường bảo hiểm, người mua bị chi phối bởi các qui định và điều khoản trong hợp đồng bảo hiểm giữa DNBH và bên mua bảo hiểm. Tuy nhiên, các hợp đồng bảo hiểm lại do DNBH soạn sẵn. Do đó để thực hiện giám sát người mua, cơ quan giám sát yêu cầu các DNBH trên thị trường thực hiện đầy đủ các quyền lợi và nghĩa vụ đối với bên mua bảo hiểm, trên cơ sở bảo vệ quyền lợi của bên mua bảo hiểm. Bên mua bảo hiểm có nghĩa vụ thực hiện theo đúng các điều khoản đã được thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm.
Xuất phát từ các lý do trên trong phạm vi nghiên cứu khi nghiên cứu các chủ thể tham gia thị trường luận án chỉ đi vào phân tích các chủ thể chính đó là các DNBH, doanh nghiệp tái bảo hiểm, DN MGBH. Việc giám sát đại lý và người mua hay hành vi mua trên thị trường sẽ được thực hiện thông qua hoạt động giám sát DNBH trên cơ sở ràng buộc của các điều khoản trên hợp đồng đại lý và hợp đồng bảo hiểm.
1.2.2. Nguyên tắc giám sát thị trường bảo hiểm phi nhân thọ
Hiệp hội các nhà quản lý bảo hiểm quốc tế (IAIS) được thành lập từ năm 1994, có trụ sở chính tại Basel - Thụy Sỹ. Cho đến nay IAIS đã có 148 thành viên là các cơ quan quản lý bảo hiểm của các nước trên thế giới. Việt Nam trở thành thành viên của IAIS từ năm 2007. Mục tiêu của IAIS là ngày càng hoàn thiện hoạt động giám sát thị trường bảo hiểm nhằm bảo vệ người tham gia bảo hiểm và góp phần ổn định tài chính toàn cầu.
IAIS ban hành các nguyên tắc giám sát trong lĩnh vực bảo hiểm nhằm nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý; thúc đẩy sự ổn định tài chính của các DNBH; bảo vệ quyền lợi của khách hàng tham gia bảo hiểm và đóng góp vào sự phát triển lành mạnh của thị trường bảo hiểm trong nước và quốc tế. Các nguyên tắc của IAIS được coi là định hướng và là căn cứ cho việc ban hành quy định pháp luật về bảo hiểm của các nước trong việc thực hiện giám sát thị trường bảo hiểm. Hiện nay, nhiều nước đã thừa nhận và tuân thủ theo nguyên tắc của IAIS.
Hệ thống các nguyên tắc giám sát bảo hiểm của IAIS ban hành từ năm 1994 gồm có 28 nguyên tắc. Đến nay đã được sửa đổi, bổ sung thành 26 nguyên tắc.
Các nguyên tắc mang tính toàn cầu mà IAIS đã đưa ra chủ yếu hướng tới thực hiện giám sát trên cơ sở rủi ro. Ở mỗi nước có phương thức giám sát riêng nên mức độ áp dụng các nguyên tắc giám sát cũng khác nhau.
Bảng 1.1: Danh mục các nguyên tắc giám sát bảo hiểm do IAIS ban hành
- ICP 1: Mục tiêu, quyền hạn, trách nhiệm của người giám sát
- ICP 2: Cơ quan giám sát
- ICP 3: Trao đổi thông tin và các yêu cầu bảo mật
- ICP 4: Giấy phép
- ICP 5: Tiêu chuẩn và điều kiện người quản trị, điều hành
- ICP 6: Thay đổi quyền kiểm soát và chuyển giao hợp đồng
- ICP 7: Quản trị doanh nghiệp
- ICP 8: Quản lý rủi ro và kiểm soát nội bộ
- ICP 9: Chế độ báo cáo và giám sát
- ICP 10: Ngăn ngừa và các biện pháp khắc phục
- ICP 11: Cưỡng chế và chế tài
- ICP 12: Đóng cửa và rút khỏi thị trường
- ICP 13: Tái bảo hiểm và các hình thức chuyển giao rủi ro khác
- ICP 14: Định giá
- ICP 15: Đầu tư
- ICP 16: Quản trị rủi ro doanh nghiệp về khả năng thanh toán
- ICP 17: Vốn tương ứng
- ICP 18: Trung gian bảo hiểm
- ICP 19: Đạo đức kinh doanh
- ICP 20: Công khai
- ICP 21: Gian lận bảo hiểm
- ICP 22: Chống rửa tiền và tài trợ cho các hoạt động khủng bố
- ICP 23: Giám sát tập đoàn
- ICP 24: Giám sát vĩ mô thận trọng và giám sát bảo hiểm
- ICP25: Hợp tác và phối hợp giám sát
- ICP 26: Quản lý khủng hoảng và hoạt động qua biên giới
(Nguồn: Hiệp hội các nhà quản lý bảo hiểm quốc tế)
1.2.3. Cơ quan giám sát thị trường bảo hiểm phi nhân thọ
Để giám sát thị trường bảo hiểm phi nhân thọ có nhiều hệ thống tham gia giám sát. Thứ nhất là giám sát của cơ quan giám sát nhà nước đối với thị trường; thứ hai là hệ thống tự giám sát của lãnh đạo và ban quản trị doanh nghiệp được qui định bắt buộc trong các văn bản pháp luật, đây là hệ thống quản lý rủi ro của doanh nghiệp bảo hiểm; thứ ba là giám sát của các tổ chức độc lập như kiểm toán độc lập, cơ quan bảo vệ người tiêu dùng,… Trong phạm vi của luận án chỉ đề cập đến hoạt động giám sát của cơ quan giám sát nhà nước đối với thị trường bảo hiểm phi nhân thọ.
Cơ quan giám sát thị trường là tổ chức được giao các chức năng thực hiện giám sát các hoạt động của thị trường nhằm đảm bảo cho thị trường ổn định và phát triển theo đúng mục tiêu đã định. Để hoạt động giám sát đạt được hiệu quả thì cơ quan giám sát phải được trao quyền. Theo nguyên tắc giám sát bảo hiểm số 2 “Cơ quan
giám sát” của IAIS, nêu rõ: “cơ quan giám sát có đủ quyền hạn, cơ sở pháp lý và nguồn lực tài chính để thực hiện chức năng và quyền hạn của mình, có nguồn nhân sự chất lượng cao” [34].
Nhằm tăng cường tính độc lập và thống nhất của cơ quan giám sát, cần có quy định pháp lý xác định cơ quan nào chịu trách nhiệm giám sát các DNBH; cần có quy định rõ ràng về việc bổ nhiệm, bãi nhiệm người đứng đầu cơ quan giám sát. Cơ quan giám sát có quyền phân bổ các nguồn lực theo mục tiêu và rủi ro; Cơ quan giám sát phải hoạt động độc lập với ảnh hưởng thương mại, nhân tố chính trị bên ngoài trong việc thực hiện các chức năng và quyền hạn của mình. Muốn vậy, cơ quan giám sát phải có đủ nguồn lực tài chính để thực hiện nhiệm vụ của mình. Quy định pháp lý cho phép cơ quan giám sát đủ quyền lực để ban hành và thực hiện các quy định giám sát. Tính độc lập sẽ giúp cho hoạt động giám sát đáng tin cậy và hiệu quả. Để đáp ứng được yêu cầu giám sát thị trường cơ quan giám sát phải có đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn cao, bằng cách thường xuyên đào tạo cán bộ hoặc có thể thuê chuyên gia bên ngoài nếu cần thiết. Cán bộ của cơ quan giám sát phải được luật pháp bảo vệ.
Điều quan trọng là xác định mối quan hệ giữa cơ quan giám sát và các cơ quan liên quan bao gồm quy trình chia sẻ thông tin, tham gia ý kiến và phối hợp trong hoạt động giám sát của các bộ, ngành liên quan. Việc trao đổi thông tin một cách có hiệu quả và kịp thời giữa các cơ quan giám sát, không chỉ giữa cơ quan quản lý bảo hiểm với nhau mà còn giữa các cơ quan giám sát bảo hiểm với khu vực dịch vụ tài chính trong trường hợp DNBH đa quốc gia, các tập đoàn bảo hiểm hay các tập đoàn tài chính. Việc chia sẻ thông tin nên được thực hiện chính xác, nhanh chóng và thuận tiện trong bối cảnh các vấn đề giám sát quan trọng cần được chú trọng. Các cơ quan giám sát cần chia sẻ thông tin nhiều hơn về các vấn đề có liên quan đến trục lợi bảo hiểm, nạn rửa tiền và đấu tranh chống khủng bố về tài chính. Cơ quan giám sát cần duy trì bí mật thông tin nhận được từ các cơ quan giám sát khác.
Bảo hiểm là một ngành dịch vụ đặc biệt, là một thị trường nhỏ trong thị trường dịch vụ tài chính bao gồm ngân hàng, chứng khoán và bảo hiểm. Tùy thuộc vào mức độ phát triển của thị trường tài chính ở từng nước mà 3 lĩnh vực này sẽ có mức độ gắn kết khác nhau. Nó ảnh hưởng tới mô hình giám sát cụ thể của từng lĩnh vực, do đó khi xem xét mô hình giám sát của thị trường bảo hiểm nên xem xét nó trong mô hình giám sát của thị trường tài chính để thấy được mối quan hệ cũng như sự tác động qua lại ảnh
hưởng đến hiệu quả giám sát của từng mô hình. Trên thế giới hiện nay đang tồn tại các mô hình cơ quan giám sát thị trường bảo hiểm chủ yếu sau (Phụ lục 1: Các mô hình cơ quan giám sát thị trường tài chính):
- Mô hình giám sát theo định chế (Institutional)
- Mô hình giám sát theo chức năng (Functional)
- Mô hình giám sát lưỡng đỉnh (Twin peak)
- Mô hình giám sát hợp nhất: Gồm hợp nhất hoàn toàn (full integration) và hợp nhất một phần (partial integration).
Tùy theo tình hình phát triển của thị trường tài chính cũng như ý chí chủ quan của các cơ quan giám sát mà mỗi nước sẽ lựa chọn mô hình phù hợp cho mình. Mỗi mô hình đều có những ưu, nhược điểm khác nhau. Trong mỗi mô hình, tùy theo đặc điểm cấu trúc của thị trường tài chính từng quốc gia, cũng như các vấn đề về văn hóa, lịch sử, chính trị và mức độ phát triển của thị trường tài chính của từng nước, mà các cơ quan giám sát thị trường sẽ trực thuộc các cấp có thẩm quyền khác nhau. Cơ quan giám sát thị trường bảo hiểm có thể là Phòng Quản lý giám sát bảo hiểm, Vụ Quản lý giám sát bảo hiểm, hoặc Cục Quản lý giám sát bảo hiểm hay Ủy ban Giám sát dịch vụ tài chính trực thuộc Bộ Tài chính hoặc trực thuộc Chính phủ hoặc Ngân hàng Nhà nước.
Đối với những nước thị trường bảo hiểm chưa phát triển, nhận thức của công chúng về bảo hiểm còn thấp, hệ thống khuôn khổ pháp lý còn đang trong quá trình hoàn thiện thì cơ quan giám sát bảo hiểm thường chỉ là một phòng nằm trong một Vụ quản lý về thị trường tài chính hoặc một Vụ trực thuộc Bộ Tài chính hoặc Ngân hàng và thường áp dụng theo mô hình giám sát định chế (ví dụ như Lào).
Đối với các nước có thị trường bảo hiểm phát triển, ngành bảo hiểm có vai trò quan trọng tác động đến cơ cấu của nền kinh tế, nhận thức của người dân về bảo hiểm ở mức độ cao thì cơ quan giám sát bảo hiểm thường là một cơ quan giám sát độc lập được tổ chức dưới dạng Ủy ban giám sát (ví dụ như Mỹ, Pháp, Ý,..)
Đối với các nước có nhiều tập đoàn tài chính đa ngành, khuôn khổ pháp lý được thiết lập đầy đủ cho từng lĩnh vực dịch vụ tài chính, với mô hình giám sát tài chính hợp nhất thì bộ phận giám sát thị trường bảo hiểm sẽ là một bộ phận độc lập nằm trong Cơ quan Giám sát Tài chính hợp nhất (ví dụ như Nhật Bản, Anh, Hàn Quốc).
Nhưng cho dù với mô hình nào thì cơ quan giám sát bảo hiểm cần đạt được những yêu cầu đã đề ra trong nguyên tắc số 1 của IAIS.
1.2.4. Nội dung giám sát thị trường bảo hiểm phi nhân thọ
Hoạt động giám sát thị trường bảo hiểm phi nhân thọ được bắt đầu từ khi chủ thể gia nhập thị trường đến khi chủ thể chấm dứt hoạt động trên thị trường, bao gồm những vấn đề sau:
1.2.4.1. Giám sát quá trình gia nhập thị trường
Giám sát quá trình gia nhập thị trường là việc kiểm tra các tiêu chuẩn, điều kiện hoạt động và xem xét cấp giấy phép thành lập. Thực chất là xem xét việc đảm bảo các điều kiện gia nhập thị trường theo luật định trên cơ sở thẩm định hồ sơ xin cấp phép. Việc giám sát này nhằm lựa chọn những tổ chức, doanh nghiệp có đủ khả năng về tài chính, kinh nghiệm trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm tham gia vào thị trường, đảm bảo an toàn cho thị trường. Lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm là lĩnh vực kinh doanh rủi ro nên có những yêu cầu rất cao về năng lực tài chính, trình độ người điều hành, bộ máy quản lý kinh doanh… Cơ quan giám sát sẽ cụ thể hóa các yêu cầu đó thông qua các quy định về tiêu chuẩn, điều kiện cấp phép đối với các chủ đầu tư khi gia nhập thị trường bảo hiểm. Các tổ chức sau khi đáp ứng đủ các yêu cầu về cấp phép mới được xem xét và cấp phép hoạt động. Trong nguyên tắc ICPs 4, 5, 7, 8 đã đưa ra các hướng dẫn yêu cầu về cấp phép, tiêu chuẩn và điều kiện người quản trị, điều hành, quản trị doanh nghiệp, quản trị rủi ro và kiểm soát nội bộ khi gia nhập thị trường.
1.2.4.2. Giám sát trong quá trình hoạt động
Để giám sát hoạt động của DNBH, cơ quan giám sát sẽ tập trung vào giám sát hai nội dung chính, đó là hoạt động nghiệp vụ và hoạt động tài chính của DNBH.
Hoạt động nghiệp vụ: Bao gồm tất cả các khâu, các quá trình vận hành của doanh nghiệp, cụ thể:
- Quản trị doanh nghiệp: Giám sát quản trị doanh nghiệp đảm bảo sự phù hợp của những cổ đông chủ chốt và các cá nhân là thành viên ban quản trị điều hành, kế toán trưởng và chuyên gia tính phí có đủ năng lực và trung thực để có thể điều hành hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Năng lực phù hợp có thể được đánh giá bằng mức độ chuyên nghiệp của cá nhân hoặc các bằng cấp chính thống, các kinh nghiệm liên quan đến bảo hiểm hoặc lĩnh vực tài chính. Cơ quan giám sát có quyền không chấp thuận cho các cá nhân không đáp ứng đầy đủ yêu cầu. Khi có thay đổi các vị trí này phải được sự chấp thuận của cơ quan giám sát.
- Các quy trình nghiệp vụ: Cơ quan giám sát yêu cầu các DNBH phải tuân thủ các qui định khi xây dựng Chiến lược kinh doanh, chiến lược cạnh tranh, marketing,
thiết kế sản phẩm, các qui trình kinh doanh nghiệp vụ (từ khai thác, giám định, bồi thường), qui trình kiểm soát nội bộ, kiểm toán nội bộ, qui trình nghiệp vụ đầu tư, hệ thống quản lý rủi ro. Đảm bảo thiết lập được hệ thống quản trị rủi ro bao gồm cả việc xây dựng và điều hành các chính sách. Hệ thống quản trị rủi ro đủ khả năng nhận dạng, đo lường, giám sát tất cả các rủi ro chính phát sinh trong tất cả các khâu của quá trình kinh doanh sản phẩm bảo hiểm. DNBH phải xây dựng các chính sách quản lý rủi ro và hệ thống kiểm soát rủi ro phù hợp với độ phức tạp, qui mô và tình trạng của các DNBH. Các DNBH phải xây dựng các sản phẩm với các mức phí phù hợp, bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng. Đối với doanh nghiệp MGBH là việc yêu cầu tuân thủ toàn bộ các qui trình nghiệp vụ về hoạt động MGBH, qui trình kiểm soát nội bộ.
- Chính sách đào tạo và quản lý đại lý: Hoạt động đại lý là hoạt động nghề nghiệp có điều kiện. Đại lý bảo hiểm phải đáp ứng những yêu cầu nhất định về cấp phép và đăng ký hành nghề; có hiểu biết đầy đủ, chuyên nghiệp và có khả năng cũng như có uy tín. Việc giám sát đại lý bảo hiểm được thực hiện gián tiếp thông qua việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của DNBH đối với đại lý bảo hiểm, như: tuyển dụng, đào tạo lần đầu và thường xuyên, trả hoa hồng, yêu cầu về đạo đức nghề nghiệp. Trách nhiệm và nghĩa vụ của đại lý được ràng buộc bởi hợp đồng đại lý giữa DNBH và đại lý đó.
- Tái bảo hiểm: Đây là biện pháp để đảm bảo an toàn cho DNBH gốc do vậy tỷ lệ tái bảo hiểm, phương pháp tái bảo hiểm, DN nhận tái bảo hiểm, qui trình tái bảo hiểm được qui định cụ thể. Việc thực hiện đáp ứng theo đúng yêu cầu của pháp luật.
- Phòng chống trục lợi, chống rửa tiền: Cơ quan giám sát yêu cầu DNBH và DN MGBH phân bổ nguồn lực một cách hợp lý, thực hiện những qui trình và điều hành hoạt động một cách có hiệu quả nhằm ngăn chặn hiện tượng trục lợi bảo hiểm, chống rửa tiền. Có trách nhiệm ghi nhận và báo cáo các hiện tượng trục lợi và rửa tiền cho các cơ quan liên quan.
- Hiện tượng cạnh tranh: Cơ quan giám sát kiểm tra việc áp dụng quy tắc, điều khoản của các DNBH; Sớm phát hiện các hành vi cạnh tranh của các DNBH dưới các hình thức giảm bớt, loại trừ, mở rộng thêm điều khoản, điều kiện bảo hiểm v.v…; hạ phí bảo hiểm nhằm tăng thị phần, giành giật khách hàng không tính đến hiệu quả kinh doanh, chi trả hoa hồng lớn hơn qui định.
Đối với phương thức giám sát tuân thủ sẽ chú trọng nhiều vào việc đối chiếu các qui định của pháp luật về các tiêu chuẩn của người quản trị điều hành, qui định bắt