Các Thành Tố Của Thị Trường Bảo Hiểm Phi Nhân Thọ



thức chấp nhận, né tránh hay kiểm soát rủi ro mà họ lựa chọn giải pháp chia sẻ rủi ro. Các đối tượng cần được bảo hiểm xuất hiện. Nhà nước cũng không thể bảo vệ và bảo trợ cho mọi rủi ro. Bên cạnh đó đời sống của người dân tăng lên, họ có tiền để tham gia bảo hiểm, khi đó cầu về bảo hiểm phát sinh. Sự ra đời của các DNBH nhằm mục đích chia sẻ rủi ro, kinh doanh rủi ro đáp ứng nhu cầu của xã hội làm xuất hiện cung về bảo hiểm. Việc xuất hiện cung và cầu về bảo hiểm hình thành nên thị trường bảo hiểm.

Giống như các loại thị trường khác (Thị trường hàng hóa, thị trường sức lao động, thị trường tiền tệ, thị trường chứng khoán, thị trường dịch vụ,…) thị trường bảo hiểm cũng hàm chứa tổng số cung, tổng số cầu, yếu tố không gian và thời gian, diễn ra các quan hệ mua, bán và các quan hệ hàng hóa, tiền tệ,… Có thể nói, thị trường bảo hiểm phi nhân thọ là nơi diễn ra các hoạt động mua và bán các sản phẩm bảo hiểm phi nhân thọ. Thị trường bảo hiểm phi nhân thọ được hình thành và chịu tác động bởi các yếu tố về cung và cầu bảo hiểm (có đối tượng cần được bảo hiểm, khả năng tài chính của người tham gia bảo hiểm, hoạt động của DNBH) nhưng thị trường có phát triển được hay không còn phụ thuộc vào sự can thiệp của Nhà nước, môi trường kinh tế, xã hội, môi trường tự nhiên, nhận thức của người dân,…

Khác với việc trao đổi mua bán trên các thị trường hàng hoá khác, sản phẩm bảo hiểm không tồn tại hữu hình mà nó là sản phẩm đặc biệt. Do đó thị trường bảo hiểm phi nhân thọ là một thị trường dịch vụ đặc biệt mà sản phẩm được mua bán chính là những cam kết về trách nhiệm bồi thường khi rủi ro xảy ra.

1.1.1.2. Các thành tố của thị trường bảo hiểm phi nhân thọ

Thị trường bảo hiểm phi nhân thọ được cấu thành bởi các thành tố cơ bản đó là: Các chủ thể tham gia thị trường, sản phẩm trao đổi trên thị trường.

- Các chủ thể tham gia thị trường, bao gồm: Người bán, người mua, trung gian bảo hiểm.

+ Người bán là các DNBH, DN tái bảo hiểm. DNBH là người bán sản phẩm bảo hiểm cho các tổ chức, cá nhân mua bảo hiểm. DNBH là người nhận rủi ro từ phía khách hàng. Trong quan hệ hợp đồng bảo hiểm, DNBH chấp nhận yêu cầu bảo hiểm bằng việc giao kết hợp đồng bảo hiểm, cấp cho bên mua bảo hiểm hợp đồng bảo hiểm hoặc bằng chứng về hợp đồng bảo hiểm, có trách nhiệm bồi thường tổn thất cho bên mua theo thoả thuận của hợp đồng bảo hiểm. Có rất nhiều loại DNBH như DNBH chuyên ngành, Công ty bảo hiểm quốc tế, DNBH vốn Nhà nước, DNBH cổ phần,


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 202 trang tài liệu này.


DNBH liên doanh, DNBH tư nhân, DNBH tương hỗ, hiệp hội bồi thường tương hỗ, … Việc tồn tại các loại hình DNBH phụ thuộc vào luật pháp của từng nước quyết định. Cho dù loại hình nào, các DNBH đều phải hoạt động trên nguyên tắc số đông, có nghĩa vụ thanh toán các tổn thất cho khách hàng khi rủi ro xảy ra trong phạm vi được bảo hiểm. DN tái bảo hiểm là người bảo hiểm cho các DNBH, thực hiện nhận bảo hiểm lại cho các rủi ro mà DNBH đã nhận từ khách hàng, đồng thời có thể chuyển một phần trách nhiệm đã chấp nhận cho DNBH hoặc doanh nghiệp tái bảo hiểm khác, trên cơ sở nhượng lại một phần phí bảo hiểm qua hợp đồng chuyển nhượng tái bảo hiểm.

Giám sát thị trường bảo hiểm phi nhân thọ ở Việt Nam - 3

+ Người mua (bên mua bảo hiểm) là tổ chức hoặc cá nhân có nhu cầu được bảo hiểm cho sức khỏe, trách nhiệm dân sự và tài sản của mình. Họ tham gia giao kết hợp đồng bảo hiểm để được đảm bảo an toàn về tài chính, bằng cách bán các rủi ro của đối tượng bảo hiểm cho các DNBH và phải trả phí. Việc phân loại khách hàng là tổ chức và cá nhân giúp DNBH có định hướng thiết kế sản phẩm và chiến lược Marketing phù hợp. Trong hợp đồng bảo hiểm, ngoài đối tượng khách hàng là tổ chức hay cá nhân còn đề cập đến các đối tượng như: người được bảo hiểm, người thụ hưởng. Việc xác định rõ các đối tượng để đảm bảo việc chi trả tuân thủ theo đúng các nguyên tắc trong bảo hiểm như nguyên tắc quyền lợi có thể được bảo hiểm,…

+ Trung gian bảo hiểm trên thị trường là những tổ chức, cá nhân tham gia kênh phân phối sản phẩm từ DNBH đến tay người tiêu dùng (bên mua bảo hiểm). Cùng với sự phát triển của thị trường bảo hiểm, kênh phân phối bảo hiểm ngày càng đa đạng, bao gồm hai nhóm chính là đại lý bảo hiểm và môi giới bảo hiểm:

Đại lý bảo hiểm là các cá nhân hoặc tổ chức đại diện cho DNBH phân phối các sản phẩm bảo hiểm tới tay người mua theo các nội dung được ủy quyền trong hợp đồng đại lý. Tùy theo từng nước có thể có các loại đại lý bảo hiểm như đại lý độc quyền; đại lý độc quyền nhưng có thể được bán một số sản phẩm bảo hiểm của công ty bảo hiểm khác; đại lý phi độc quyền; đại lý con; đại lý xét nhận bảo hiểm,….

Môi giới bảo hiểm là cá nhân hoặc tổ chức đại diện và bảo vệ quyền lợi của bên mua bảo hiểm. MGBH phải có hiểu biết và kỹ năng để tư vấn cho bên mua trong việc lựa chọn DNBH và thu xếp ký kết hợp đồng bảo hiểm phù hợp với nhu cầu và khả năng tài chính của bên mua. MGBH tư vấn cho bên mua giải pháp tốt nhất để quản lý rủi ro và là người trực tiếp thương lượng với DNBH để thu xếp ký hợp đồng bảo hiểm. Hoạt động môi giới bảo hiểm được chia thành môi giới bảo hiểm gốc và môi giới tái



bảo hiểm. Môi giới bảo hiểm gốc là hoạt động đàm phán, thu xếp các vấn đề về bảo hiểm giữa các tổ chức, cá nhân mua bảo hiểm và DNBH gốc. Môi giới tái bảo hiểm là hoạt động đàm phán, thu xếp các vấn đề về nhượng và nhận tái bảo hiểm giữa các DNBH, DN tái bảo hiểm.

- Sản phẩm trao đổi trên thị trường bảo hiểm phi nhân thọ là sự cam kết của DNBH đối với bên mua bảo hiểm về việc bồi thường hay trả tiền bảo hiểm khi có các sự kiện bảo hiểm xảy ra. Khi mua bảo hiểm, bên mua bảo hiểm (các tổ chức, cá nhân) trả một khoản tiền nhất định (hay nộp phí bảo hiểm), ký với DNBH hợp đồng bảo hiểm để xác nhận trách nhiệm của DNBH sẽ bồi thường hoặc trả tiền bảo hiểm cho bên mua bảo hiểm hoặc người được bảo hiểm khi xảy ra rủi ro thuộc phạm vi bảo hiểm như đã thoả thuận trong hợp đồng. Hợp đồng bảo hiểm phải chỉ rõ: đối tượng bảo hiểm, giá trị bảo hiểm, phạm vi bảo hiểm, điều kiện bảo hiểm, điều khoản bảo hiểm, rủi ro loại trừ, thời hạn bảo hiểm, mức phí bảo hiểm, các qui định về trả tiền bảo hiểm, giải quyết bồi thường và xử lý tranh chấp (nếu có), ngày hiệu lực của hợp đồng,… để xác định rõ trách nhiệm của mỗi bên tham gia hợp đồng.

Có nhiều tiêu thức để phân chia sản phẩm bảo hiểm như căn cứ vào đối tượng bảo hiểm có thể phân loại thành BH tài sản, BH trách nhiệm, BH sức khỏe; căn cứ vào tính chất của hình thức bảo hiểm có thể phân loại thành BH bắt buộc, BH tự nguyện; căn cứ vào thời hạn bảo hiểm có thể phân loại thành BH ngắn hạn, BH dài hạn; căn cứ vào thứ tự ưu tiên áp dụng các nguồn luật có thể phân loại thành BH hàng hải, BH phi hàng hải,... Việc phân chia các loại bảo hiểm nhằm giúp các doanh nghiệp có biện pháp tổ chức, triển khai và quản lý sản phẩm được tốt, cơ quan quản lý đưa ra những qui định hợp lý nhằm phát huy những ưu điểm của từng sản phẩm. Sản phẩm bảo hiểm có những đặc điểm riêng biệt như tính vô hình, tính không mong đợi, hiệu quả xê dịch,…Các đặc điểm của sản phẩm chi phối nhiều đến quá trình tiếp cận và giới thiệu sản phẩm, nên việc giao kết hợp đồng bảo hiểm không phải là hoàn tất quá trình bán hàng, mà đó mới chỉ là điểm khởi đầu của cả một chu trình chăm sóc và bảo vệ quyền lợi khách hàng kéo dài về sau.

Sự vận động hay đặc điểm của những thành tố trong thị trường bảo hiểm phi nhân thọ làm nảy sinh các quan hệ, hành vi trên thị trường. Để thị trường phát triển lành mạnh và đúng định hướng việc quản lý và giám sát các thành tố của thị trường là



không thể thiếu. Do đó, cơ quan giám sát phải hiểu rõ được xu hướng vận động và phát triển của các thành tố trong thị trường để hoạt động giám sát có hiệu quả.

1.1.2. Qui luật hoạt động của thị trường bảo hiểm phi nhân thọ

Thị trường bảo hiểm phi nhân thọ bị chi phối bởi các qui luật chung của thị trường và qui luật đặc thù của thị trường bảo hiểm, bao gồm:

1.1.2.1. Qui luật cung, cầu

Cung - cầu về bảo hiểm được phát triển trên cơ sở sự phát triển của nền kinh tế xã hội. Kinh tế xã hội càng phát triển thì nhu cầu bảo hiểm trên các khía cạnh và các sản phẩm trong cuộc sống ngày càng phong phú và đa dạng. Cung của thị trường bảo hiểm phi nhân thọ phụ thuộc rất lớn vào nhu cầu bảo hiểm. Cầu của thị trường lại biến động lúc tăng, lúc giảm và phụ thuộc vào thực trạng của nền kinh tế. Nhưng xét về cả một quá trình lâu dài thì cầu về bảo hiểm có xu hướng tăng lên bởi điều kiện kinh tế ngày một được nâng cao. Theo mô hình về nhu cầu của Maslow, tất yếu nhu cầu của con người sẽ đa dạng và ở mức độ ngày càng cao, họ càng có ý thức hơn về nhu cầu bảo hiểm. Nắm bắt được qui luật này các DNBH sẽ có định hướng trong phát triển kinh doanh, biết đưa ra những sản phẩm phù hợp với nhu cầu của thị trường trong từng thời điểm cụ thể, người tiêu dùng cũng sẽ có nhiều cơ hội để lựa chọn sản phẩm phù hợp, cơ quan quản lý hoạch định chính sách phù hợp với định hướng phát triển thị trường, phù hợp với xu thế phát triển của nền kinh tế.

1.1.2.2. Qui luật giá trị

Qui luật giá trị được thể hiện trong phí bảo hiểm, phí bảo hiểm gồm hai phần chính là phí thuần và phụ phí. Phí thuần là khoản phí mà khách hàng phải đóng góp tương đương với trách nhiệm bồi thường tổn thất của họ do nhà bảo hiểm quản lý. Bộ phận này còn được gọi là khoản đóng góp cho rủi ro hay khoản đóng góp cân bằng về mặt kỹ thuật giúp các nhà bảo hiểm đủ để chi trả tiền bồi thường khi có các rủi ro liên quan đến đối tượng được bảo hiểm. Phụ phí là khoản khách hàng phải nộp cùng với phí thuần nhằm giúp nhà bảo hiểm trang trải các khoản chi phí kinh doanh và có lãi. Các khoản chi phí kinh doanh bao gồm chi phí bán hàng, chi phí đề phòng hạn chế tổn thất, chi phí quản lý DN, thuế, lợi nhuận,… Các khoản phụ phí sẽ biến động tùy thuộc vào điều kiện và mục tiêu kinh doanh. Phí bảo hiểm cũng chịu tác động của qui luật cung - cầu. Việc tính toán chi phí một cách hợp lý để xác định chính xác giá phí bảo hiểm đáp ứng được nhu cầu thị trường sẽ quyết định tới sự thành công của DNBH. Mức phí bình



quân không thể thấp hơn mức phí tính trên quy luật số lớn và các phụ phí, tức là điểm hòa vốn của DNBH. Cơ quan quản lý có thể thông qua qui luật giá trị để định hướng phát triển thị trường bằng cách điều chỉnh các chính sách về thuế, hoa hồng,.. Mặt khác, căn cứ vào qui luật giá trị cơ quan giám sát thị trường có thể xác định tương đối chính xác điểm hòa vốn của sản phẩm để điều chỉnh không cho phép DNBH hạ phí một cách phi kỹ thuật, làm ảnh hưởng tới tính lành mạnh của thị trường.

1.1.2.3. Qui luật cạnh tranh và liên kết

Trong thị trường, qui luật cạnh tranh tạo nên sự vận động của thị trường và trật tự thị trường. Qui luật giá trị là cơ sở của qui luật cạnh tranh. Trong thị trường bảo hiểm có sự tham gia của nhiều DNBH thì sự cạnh tranh để thu hút khách hàng, chiếm lĩnh thị trường, nâng cao thị phần giữa các doanh nghiệp là điều không tránh khỏi. Tính cạnh tranh diễn ra thường xuyên, liên tục trên thị trường. Do đặc điểm của sản phẩm bảo hiểm là không bảo hộ bản quyền nên các doanh nghiệp dễ bắt chước đưa ra những sản phẩm mà thị trường đang được chấp nhận bằng nhiều hình thức cạnh tranh như: Cạnh tranh về phí, quảng cáo, khuyến mại, phí hoa hồng,... Việc cạnh tranh cũng tạo điều kiện để các doanh nghiệp chủ động thiết kế và đưa ra nhiều sản phẩm đáp ứng nhu cầu đa dạng của thị trường và với chất lượng sản phẩm ngày càng được nâng cao. Tuy nhiên, để đảm bảo quyền lợi cho DNBH cũng như người tiêu dùng trên thị trường, cơ quan giám sát thị trường sớm phát hiện những biểu hiện cạnh tranh không lành mạnh như: hạ phí phi kỹ thuật, các qui tắc, điều khoản của sản phẩm không rõ ràng làm ảnh hưởng tới quyền lợi của người tiêu dùng; từ đó điều chỉnh các DNBH phát triển theo định hướng chung của thị trường, đảm bảo thị trường ổn định và lành mạnh.

Bên cạnh hoạt động cạnh tranh trong kinh doanh, với nhu cầu bảo hiểm của xã hội ngày càng lớn, với khả năng của các DNBH còn hạn chế thì các DNBH đã có sự liên kết để có thể thực hiện bảo hiểm cho các nhu cầu lớn của xã hội thông qua hoạt động đồng bảo hiểm, tái bảo hiểm. Đặc biệt, với xu hướng của hội nhập và toàn cầu hóa thì tính liên kết ngày càng được phát triển, nhiều doanh nghiệp cùng tham gia bảo hiểm cho một đối tượng để chia sẻ rủi ro (đồng bảo hiểm), hợp tác và bắt tay nhau cùng thiết kế sản phẩm mới cho thị trường.

Các cơ quan giám sát thị trường nắm bắt được quy luật cạnh tranh và liên kết để điều tiết các doanh nghiệp thực hiện cạnh tranh lành mạnh và trong khuôn khổ pháp luật.


1.1.2.4. Qui luật số lớn

Đây là qui luật đặc thù của thị trường bảo hiểm. Bảo hiểm chính là sự phân tán rủi ro, chia nhỏ tổn thất của một số người cho nhiều người cùng gánh chịu. Người tham gia bảo hiểm chỉ đóng một khoản phí nhỏ hơn nhiều so với số tiền bảo hiểm. Khi rủi ro xảy ra người tham gia bảo hiểm được bồi thường theo mức độ tổn thất. Trên thực tế, không phải bao giờ toàn bộ số người tham gia bảo hiểm đều bị rủi ro, do đó hậu quả của rủi ro xảy ra với một số ít người sẽ được bù đắp bằng số tiền tham gia mua bảo hiểm của nhiều người đối với cùng loại rủi ro. Theo nguyên lý của luật số lớn, số người tham gia quĩ bảo hiểm càng nhiều thì số lượng thành viên chia sẻ rủi ro với nhau càng lớn, tổn thất mỗi thành viên phải chịu cũng giảm đi. Luật số lớn trở thành cơ sở kỹ thuật quan trọng của bảo hiểm, là căn cứ để tính phí bảo hiểm. Để việc tính phí phù hợp đòi hỏi phải có được số liệu thống kê về tần suất, mức độ xảy ra rủi ro đối với một loại rủi ro, số người tham gia bảo hiểm phải đủ lớn để bù đắp cho tổn thất khi rủi ro xảy ra.

Việc nắm bắt qui luật hoạt động của thị trường bảo hiểm phi nhân thọ giúp cho việc tổ chức hoạt động giám sát thị trường hiệu quả. Thực hiện kiểm soát và điều chỉnh thị trường hoạt động theo đúng qui luật vốn có của thị trường.

1.2. NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ GIÁM SÁT THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM PHI NHÂN THỌ

1.2.1. Tổng quan về giám sát thị trường bảo hiểm phi nhân thọ

1.2.1.1. Khái niệm giám sát thị trường bảo hiểm phi nhân thọ

Trong từ điển tiếng Việt, “Giám sát” được hiểu là “hoạt động quan sát, theo dõi, xem xét làm đúng hoặc sai những điều đã quy định” hoặc được hiểu là “theo dõi và kiểm tra xem thực hiện đúng những điều qui định không” [27]. Theo Từ điển bách khoa toàn thư của Liên Xô “Giám sát là một hoạt động theo dõi của một chủ thể quản lý đối với một khách thể quản lý” [28]. Giám sát luôn gắn với một chủ thể nhất định hay trả lời câu hỏi “Ai giám sát?”, tức là cá nhân hay tổ chức nào được thực hiện việc theo dõi, xem xét đối với việc thực hiện của một cá nhân hay tổ chức khác? Đồng thời giám sát cũng luôn gắn với đối tượng cụ thể, có nghĩa là trả lời câu hỏi “Giám sát ai?”,“Giám sát cái gì?”. Giám sát phải thực hiện trên cơ sở các quyền và nghĩa vụ của chủ thể giám sát và đối tượng chịu sự giám sát. Giám sát cũng phải được tiến hành trên



những căn cứ nhất định, nếu như không có những căn cứ này thì không có cơ sở để chủ thể giám sát có quyền thực hiện giám sát, đưa ra những nhận định về hoạt động của đối tượng chịu sự giám sát. Chủ thể giám sát phải sử dụng các phương thức, công cụ để giám sát đối tượng bị giám sát.

Không có một khái niệm đầy đủ về Giám sát thị trường bảo hiểm phi nhân thọ, nhưng xuất phát từ quan niệm giám sát và thị trường bảo hiểm phi nhân thọ, có thể hiểu Giám sát thị trường bảo hiểm phi nhân thọ là quá trình theo dõi, kiểm tra thường xuyên của cơ quan có chức năng giám sát thị trường đối với tình hình vận động của các chủ thể tham gia thị trường kể từ khi chủ thể bắt đầu gia nhập thị trường cho đến khi kết thúc quá trình hoạt động của chủ thể đó trên thị trường, bằng phương thức, qui trình giám sát, nhằm đảm bảo hoạt động thị trường bảo hiểm phi nhân thọ diễn ra theo đúng mục tiêu giám sát.

Từ cách hiểu khái niệm về giám sát thị trường bảo hiểm phi nhân thọ có thể thấy, việc nghiên cứu về giám sát thị trường bảo hiểm phi nhân thọ phải đi vào nghiên cứu rõ: mục tiêu giám sát thị trường? cá nhân, tổ chức nào có chức năng giám sát thị trường? chức năng của cơ quan giám sát thị trường (quyền và nghĩa vụ của chủ thể giám sát)? đối tượng chịu sự giám sát (giám sát ai)? nội dung giám sát (giám sát cái gì)? phương thức giám sát, qui trình giám sát của cơ quan giám sát trả lời cho câu hỏi giám sát như thế nào? tác động của hoạt động giám sát đến đối tượng chịu sự giám sát thể hiện ở sự phát triển, an toàn và lành mạnh của thị trường bảo hiểm phi nhân thọ? Để trả lời cho các câu hỏi này luận án sẽ đi vào giải quyết từng vấn đề trong các phần của luận án.

1.2.1.2. Sự cần thiết phải giám sát thị trường bảo hiểm phi nhân thọ

Xuất phát từ đặc điểm của sản phẩm, đặc điểm của thị trường và qui luật hoạt động của thị trường bảo hiểm phi nhân thọ nên trong quá trình vận động của thị trường tồn tại các rủi ro ảnh hưởng đến sự phát triển ổn định và lành mạnh của thị trường. Nhằm đảm bảo sự an toàn, ổn định cho thị trường và các chủ thể tham gia thị trường, việc giám sát thị trường bảo hiểm là một nhu cầu tất yếu khách quan vì:

- Để phát huy vai trò của thị trường bảo hiểm đối với nền kinh tế, đóng góp vào sự tăng trưởng kinh tế, phân bổ các nguồn lực hiệu quả, quản lý rủi ro và huy động vốn dài hạn, các DNBH phải hoạt động trên cở sở lành mạnh về mặt tài chính. Thị trường bảo hiểm phát triển có thể thúc đẩy tính hiệu quả của toàn hệ thống tài chính bằng cách



giảm chi phí giao dịch, tạo tính thanh khoản, thúc đẩy đầu tư. Một hệ thống quản lý và giám sát mạnh sẽ duy trì tính hiệu quả, an toàn, công bằng và ổn định cho thị trường bảo hiểm, thúc đẩy thị trường tăng trưởng và bảo vệ người tham gia bảo hiểm.

- Xuất phát từ đặc điểm sản phẩm bảo hiểm là một sản phẩm vô hình, được thể hiện dưới dạng hợp đồng song vụ do DNBH soạn sẵn, do đó thường ẩn chứa sự bất bình đẳng nhất định giữa bên mua và bên bán bảo hiểm. Thông thường các DNBH thường tạo ra những điểm có lợi cho mình ngay từ khi thiết kế qui tắc, điều khoản của sản phẩm. Do đó để đảm bảo quyền lợi cho bên mua bảo hiểm, cơ quan giám sát phải thực hiện giám sát cả quá trình kinh doanh bảo hiểm từ khâu thiết kế sản phẩm đến khâu phân phối, bồi thường vì tất cả các khâu đều có thể phát sinh rủi ro gây bất ổn cho thị trường.

- Là một sản phẩm vô hình, người mua chỉ có thể nhận biết được chất lượng của sản phẩm thông qua các thông tin về sản phẩm do DNBH và trung gian bảo hiểm cung cấp. Đại lý bảo hiểm hay môi giới bảo hiểm có thể quên đi đạo đức nghề nghiệp, giới thiệu đến khách hàng những thông tin không chính xác với qui tắc điều khoản của sản phẩm nhằm mục đích bán được sản phẩm để hưởng hoa hồng. Điều này sẽ ảnh hưởng tới quyền lợi của khách hàng khi rủi ro xảy ra. Do vậy, cơ quan giám sát phải thực hiện giám sát quá trình phân phối sản phẩm của các trung gian trên thị trường.

- Sản phẩm bảo hiểm có hiệu quả xê dịch, việc tính toán chi phí dựa trên các cơ sở tần suất tổn thất và chi phí trung bình/một tổn thất. Kết quả tính toán phụ thuộc rất nhiều vào số liệu thống kê rủi ro, tổn thất trong quá khứ. Việc định phí tiềm ẩn rất nhiều rủi ro cho chính bản thân doanh nghiệp và người tham gia bảo hiểm. Ngoài ra, việc cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường dưới hình thức hạ thấp phí sẽ gây ra những ảnh hưởng bất lợi đến an toàn tài chính của DNBH. Việc giám sát để đảm bảo DNBH tính toán phí một cách hợp lý và cung cấp các sản phẩm bảo hiểm với giá phí được tính toán khoa học sẽ giúp cho thị trường phát triển lành mạnh.

- Đặc điểm của hoạt động kinh doanh bảo hiểm là “chu trình kinh doanh đảo ngược”, có nghĩa là doanh nghiệp bán bảo hiểm thu phí bảo hiểm trước, việc bồi thường, trả tiền bảo hiểm chỉ có thể thực hiện sau một thời gian và với những điều kiện ràng buộc của hợp đồng bảo hiểm. Về trách nhiệm trong hợp đồng, DNBH phải sẵn sàng thanh toán các tổn thất phát sinh từ các rủi ro thuộc phạm vi hợp đồng cho bên mua bảo hiểm, do vậy các DNBH phải luôn đáp ứng được biên khả năng thanh toán để

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 25/12/2023