Mô Hình Giám Sát Giao Dịch Chứng Khoán Trên Ttckvn Được Đặt Trong Mô Hình Giám Sát Thị Trường Tài Chính


- Hỗ trợ nhau giữa các thành viên nhằm bảo vệ tính toàn vẹn của thị trường bằng cách áp dụng bắt buộc các chuẩn mực và thực hiện việc cưỡng chế thực thi đối với các vi phạm.

Các hoạt động này đã thúc đẩy hoạt động hợp tác và hỗ trợ đa phương giữa TTCKVN và các TTCK trên thế giới là thành viên của IOSCO. Bên cạnh các hoạt động trong khuôn khổ IOSCO, trong lĩnh vực giám sát giao dịch chứng khoán trên TTCK, cần đẩy mạnh việc gia nhập các tổ chức giám sát liên thị trường hoặc ký kết hợp tác song phương với UBCK các nước trong hỗ trợ kỹ thuật và phối hợp giám sát giao dịch chứng khoán xuyên quốc gia.

b. Các tổ chức tự quản

Trong mô hình giám sát giao dịch chứng khoán được đề xuất ở phần trên, các tổ chức tự quản vừa là đối tượng giám sát, vừa là chủ thể giám sát, bao gồm SGDCK và HHKDCK. Với tư cách là chủ thể giám sát, các SGDCK và HHKDCK thực hiện giám sát giao dịch chứng khoán trên thị trường trong khuôn khổ chức năng, nhiệm vụ, theo quy định của pháp luật và sự phân quyền của UBCKNN.

Đối với SGDCK, chức năng giám sát giao dịch chứng khoán trên TTCKVN của các SGDCK đã được quy định khá rõ ràng về mặt pháp lý. Trong mô hình giám sát, vấn đề cần quan tâm đối với SGDCK là sự phối hợp trong hoạt động giám sát với UBCKNN, HHKDCK. Sự phối hợp này được mô tả cụ thể trong phần giải pháp về hoàn thiện nội dung và phương thức giám sát ở phần sau của luận án. Bên cạnh đó, sự hợp tác và phối hợp giữa HOSE và HASTC làm tăng hiệu quả giám sát, giảm chi phí và tránh rủi ro do thông tin bất cân xứng. Trên thực tế, các giao dịch trên HOSE và HASTC là khác nhau đáng kể về chứng khoán niêm yết và đăng ký giao dịch, hệ thống khớp lệnh. Tuy nhiên, sự khác nhau này chỉ mang tính kỹ thuật, việc tổ chức hoạt động giám sát giao dịch chứng khoán của


HOSE và HASTC cơ bản là giống nhau. Vì vậy, một số nội dung như xây dựng quy chế thành viên, quy trình giám sát, nội dung và phương thức giám sát, xây dựng cơ sở dữ liệu, phần mềm và tiêu chí giám sát...có thể kết hợp để triển khai. Điều này sẽ làm cho sự kết nối giữa UBCKNN và các SGDCK được chuẩn hóa hơn, giảm chi phí nghiên cứu và triển khai thực hiện, nâng cao hiệu quả giám sát.

Bên cạnh đó, sự phân quyền của UBCKNN cho SGDCK trong xử lý vi phạm cũng là vấn đề cần sớm được giải quyết, sự phân quyền đến mức có thể cho các SGDCK là yếu tố quan trọng góp phần nâng cao hiệu quả giám sát giao dịch chứng khoán [56]. Như đã phân tích ở chương 2, Trong mô hình giám sát giao dịch chứng khoán, SGDCK TPHCM có thẩm quyền rất hạn chế. Về mặt nguyên tắc, các SGDCK có xu hướng bảo vệ thành viên của mình, đồng thời, cũng là bảo vệ lợi ích của SGDCK. Vì vậy, cần khuyến khích việc phân quyền đến mức có thể trong khuôn khổ quy định của pháp luật, cụ thể là:

- Sự ủy quyền của UBCKNN cho SGDCK kiểm tra định kỳ và bất thường cần được quy định tại chức năng, nhiệm vụ, nên sớm xem xét bỏ quy định về ủy quyền bằng văn bản trong từng đợt kiểm tra như hiện nay. Điều này sẽ tạo sự chủ động và vị thế của SGDCK đối với các đối tượng giám sát, góp phần nâng cao hiệu quả giám sát.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 267 trang tài liệu này.

- SGDCK cần được chủ động tiến hành các biện pháp mang tính nghiệp vụ đối với các CTCK là thành viên của SGDCK như ghi âm điện thoại và theo dõi trao đổi qua e-mail của đại diện giao dịch của CTCK tại sàn.

- Khi có kết luận về vi phạm, nếu là vi phạm của thành viên thị trường, ngoài quyền hạn xử lý theo quy định hiện tại, SGDCK cần được được ra quyết định xử phạt bằng tiền đối với các vi phạm quy chế thành viên của SGDCK về giao dịch và công bố thông tin. Trong trường hợp vi phạm là của

Giám sát giao dịch chứng khoán trên thị trường chứng khoán Việt Nam - 20


nhà đầu tư, hoặc của thành viên thị trường nhưng liên quan đến giao dịch bất thường thì SGDCK sẽ báo cáo UBCKNN để có biện pháp xử lý và cưỡng chế thực thi theo thẩm quyền.

Đối với HHKDCK, hiện tại chưa có chế tài để HHKDCK thực hiện giám sát giao dịch chứng khoán. Trong mô hình giám sát được đề xuất ở phần trên, HHKDCK là chủ thể giám sát giao dịch chứng khoán với tư cách là tổ chức tự quản.

HHKDCK Việt Nam mới được thành lập và hoạt động (Quyết định của Bộ Nội vụ thành lập HHKDCK ngày 14/5/2004), bước đầu mới chỉ đóng vai trò làm đầu mối của các CTCK, tham gia các văn bản pháp quy, đề xuất các giải pháp phát triển thị trường và hỗ trợ phổ biến kiến thức về chứng khoán và thị trường chứng khoán. HHKDCK cần chủ động xây dựng Điều lệ Hiệp hội, ban hành các quy chế tự quản trên cơ sở đồng thuận của các thành viên và buộc thành viên phải tuân thủ, ban hành quy định về chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp, giám sát sự tuân thủ pháp luật của các thành viên và phối hợp với UBCKNN, SGDCK, TTLKCK trong giám sát sự tuân thủ của các thành viên thị trường. Sự phối hợp này phải rõ ràng và cụ thể, chẳng hạn, UBCKNN và SGDCK ra quy định để đáp ứng điều kiện trở thành thành viên của SGDCK, CTCK nhất thiết phải là thành viên của HHKDCK.

3.2.1.2. Đối tượng giám sát

Để giám sát giao dịch chứng khoán có hiệu quả, cần xác định rõ đối tượng giám sát trên TTCKVN, từ đó, xây dựng nội dung và phương thức để giám sát các đối tượng tham gia giao dịch chứng khoán này. Với phạm vi nghiên cứu của luận án là giám sát giao dịch chứng khoán trên SGDCK nên đối tượng giám sát là các tổ chức tự quản, các tổ chức và cá nhân tham gia giao dịch chứng khoán hoặc cung cấp dịch vụ có liên quan đến giao dịch chứng khoán trên SGDCK, bao gồm: công ty niêm yết, CTCK thành viên, QĐT ở các mô hình khác nhau, các nhà đầu tư, các tổ chức và cá nhân có liên


quan khác.

a. Các tổ chức tự quản

Các tổ chức tự quản là đối tượng giám sát giao dịch chứng khoán gồm SGDCK và HHKDCK. Trong phạm vi nghiên cứu của luận án, các tổ chức tự quản chịu sự giám sát của UBCKNN trong hoạt động liên quan đến giám sát giao dịch chứng khoán, đồng thời, giám sát giao dịch chứng khoán trên SGDCK. Tương tự như phần 3.2.1.1.Chủ thể giám sát, các quy định hiện hành chưa coi HHKDCK là đối tượng giám sát mà mới chỉ đóng vai trò làm đầu mối của các CTCK, tham gia các văn bản pháp quy, đề xuất các giải pháp phát triển thị trường và hỗ trợ phổ biến kiến thức về chứng khoán và thị trường chứng khoán.

b. Công ty niêm yết

CTNY là một trong những đối tượng chính của hoạt động giám sát. Các thông tin về tình hình tài chính và hoạt động của các CTNY luôn là yếu tố quan trọng tác động trực tiếp tới giá chứng khoán. Người có khả năng nắm giữ thông tin quan trọng là những đối tượng cần tập trung giám sát vì dễ liên quan đến hành vi giao dịch nội gián hay công tác công bố thông tin, ảnh hưởng đến tính công bằng, công khai của thị trường.

c. Công ty Chứng khoán

CTCK tham gia vào hoạt động giao dịch trên SGDCK với tư cách là người kinh doanh chứng khoán, vừa là người trung gian môi giới. Việc giám sát các CTCK nhằm đảm bảo việc tuân thủ quy định pháp luật về chứng khoán và TTCK của các đối tượng này cũng như tuân thủ các quy định, nguyên tắc của SGDCK nhằm ngăn ngừa những hành vi có thể gây tổn hại đến lợi ích của nhà đầu tư và tính công bằng thị trường.


d. Quỹ đầu tư chứng khoán

QĐT chứng khoán là một tổ chức đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp, được hình thành bởi những người tiết kiệm và những người đầu tư chuyên nghiệp cùng góp vốn để thực hiện đầu tư qua chứng khoán, nhằm đa dạng hoá lĩnh vực đầu tư, phân tán rủi ro. Với quy mô vốn lớn, giao dịch của các QĐT trên TTCK có thể tác động đến giao dịch chung của thị trường. Việc giám sát QĐT chứng khoán trong giao dịch chứng khoán nhằm đảm bảo tính công bằng, công khai, bảo vệ nhà đầu tư.

e. Các đối tượng khác

Ngoài các đối tượng giám sát như trên, các tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động giao dịch chứng khoán là ngân hàng thương mại cung cấp dịch vụ mở tài khoản tiền đầu tư chứng khoán, các nhà đầu tư tổ chức, cá nhân thuộc diện phải công bố thông tin giao dịch theo quy định và những đối tượng có thể có tác động đến giao dịch chứng khoán trên TTCK là đối tượng cần được giám sát chặt chẽ.

3.2.1.3. Mô hình giám sát giao dịch chứng khoán trên TTCKVN được đặt trong mô hình giám sát thị trường tài chính

Mô hình giám sát giao dịch chứng khoán trên TTCKVN nếu tách rời hoặc có quan hệ không đồng bộ, không chặt chẽ với tổng thể hoạt động giám sát thị trường tài chính thì vẫn có những hạn chế trong hoạt động giám sát như đã phân tích ở Chương 2.

Để khắc phục vấn đề này, mô hình giám sát đối với tổng thể thị trường tài chính, bao gồm cả ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm, tương tự như mô hình Nhật Bản, Hàn Quốc, Úc và nhiều quốc gia khác trên thế giới cần được nghiên cứu và thực hiện theo lộ trình tại Việt Nam. Theo đó, thành lập Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia theo mô hình mới là cơ quan giám sát thị trường


tài chính, trên cơ sở Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia là cơ quan tham mưu, tư vấn cho Thủ tướng Chính phủ hiện nay, kết hợp với các cơ quan giám sát hiện tại của Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước, UBCKNN.

Nếu thực hiện theo mô hình này, cấu trúc tổ chức, nhất là chức năng, nhiệm vụ của Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước và UBCKNN sẽ thay đổi theo hướng phù hợp hơn với mô hình của các nước trên thế giới. Hệ thống giám sát giao dịch chứng khoán trên TTCK khi đó sẽ trở thành một bộ phận của hệ thống giám sát thị trường tài chính. Tuy nhiên, đây là vấn đề rất lớn, liên quan đến tổ chức bộ máy các cơ quan quản lý nhà nước đối với thị trường tài chính nên cần được nghiên cứu kỹ lưỡng và có lộ trình chuẩn bị trong dài hạn.

3.2.2. Hoàn thiện nội dung, phương thức giám sát giao dịch chứng khoán

3.2.2.1. Nội dung và phương thức giám sát giao dịch chứng khoán của UBCKNN và SGDCK

a. Nội dung

- Giám sát giao dịch chứng khoán trên thị trường, nhằm ngăn ngừa, phát hiện các giao dịch và hành vi vi phạm pháp luật về giao dịch chứng khoán, bao gồm hành vi gian lận hoặc lừa đảo trong giao dịch chứng khoán, giao dịch nội gián, giao dịch thao túng thị trường, các hành vi vi phạm khác theo quy định của pháp luật.

- Giám sát công ty niêm yết, công ty đại chúng trong các hoạt động liên quan đến giao dịch chứng khoán. Trên SGDCK TPHCM, đối tượng giám sát là công ty niêm yết, trên SGDCK Hà Nội, đối tượng giám sát gồm cả CTNY và công ty đại chúng đăng ký giao dịch (sàn giao dịch cổ phiếu của CTCP đại chúng chưa niêm yết, đăng ký giao dịch tại SGDCK Hà Nội, hay còn được


gọi là UpCoM). Nội dung giám sát công ty niêm yết, công ty đại chúng là giám sát hoạt động công bố thông tin liên quan đến giao dịch chứng khoán.

- Giám sát các trung gian tài chính trên thị trường, bao gồm cả QĐT, CTCK trong các hoạt động liên quan đến giao dịch chứng khoán. Trong nội dung này, tùy vào hoạt động của các định chế trung gian, chủ thể giám sát tiến hành giám sát theo những nội dung khác nhau. Với CTCK, UBCKNN và SGDCK giám sát việc ban hành các quy định, thực hiện quy trình đặt lệnh, chuyển lệnh giao dịch chứng khoán cho khách hàng của CTCK, việc thực hiện chế độ kiểm soát nội bộ và các quy định khác liên quan đến hoạt động giao dịch chứng khoán. Với các QĐT chứng khoán, UBCKNN và SGDCK giám sát hoạt động giao dịch chứng khoán và công bố thông tin liên quan đến giao dịch theo quy định của pháp luật. Với các định chế trung gian khác, nội dung giám sát tập trung vào hoạt động cung cấp các dịch vụ liên quan đến giao dịch chứng khoán của các định chế này.

Do các tổ chức tự quản cũng là đối tượng giám sát của UBCKNN nên với tư cách là chủ thể giám sát, ngoài các nội dung trên, UBCKNN còn giám sát các tổ chức tự quản trong các hoạt động liên quan đến giao dịch chứng khoán. Trong nội dung này, UBCK xem xét và chấp thuận các quy định, quy chế về tổ chức, hoạt động, các quy định quản lý thị trường và quản lý thành viên của các tổ chức tự quản. Đồng thời, UBCK giám sát sự tuân thủ và kiểm tra các tổ chức tự quản trong hoạt động quản lý thành viên và giám sát thị trường của mình, thực hiện các biện pháp điều tra, xử phạt các tổ chức tự quản theo luật định.

b. Phương thức

Với các nội dung chính như trên, UBCKNN và SGDCK giám sát giao dịch chứng khoán thông qua các phương thức sau:


Một là, giám sát trực tuyến các giao dịch hàng ngày của các chứng khoán niêm yết, đăng ký giao dịch chứng khoán để phát hiện các giao dịch bất thường. Để thực hiện phương thức giám sát này, chủ thể giám sát cần thông qua phần mềm giám sát hiện đại, được cài đặt tự động hệ thống chỉ tiêu giám sát, được tích hợp cơ sở dữ liệu từ các hệ thống thông tin giao dịch, công bố thông tin và lưu ký chứng khoán. Giải pháp cho việc ứng dụng phần mềm giám sát giao dịch và phát triển cơ sở dữ liệu sẽ được đề cập ở những nội dung tiếp sau của luận án.

Hai là, giám sát giao dịch chứng khoán nhiều ngày dựa trên cơ sở dữ liệu giao dịch chứng khoán; các báo cáo, phản ánh thông tin của các CTCK, công ty niêm yết, các tổ chức, cá nhân tham gia thị trường chứng khoán; các bản công bố thông tin của các nhà đầu tư theo quy định của pháp luật; các nguồn tin trên các phương tiện thông tin đại chúng, tin đồn và các nguồn thông tin khác.

Nhằm thu thập thông tin từ công chúng cho việc theo dõi, phân tích, kiểm tra, UBCKNN và SGDCK phải tạo ra những kênh cung cấp thông tin một cách dễ dàng, chẳng hạn tại website của UBCKNN và SGDCK có phần cung cấp thông tin hoặc tạo đường link từ nhiều trang web nổi tiếng khác nhau dẫn vào mục cung cấp thông tin nói trên. Chủ thể giám sát cũng cần có những địa chỉ để nhận phản ánh của các thành viên tham gia thị trường qua đường bưu điện, điện thoại, fax, email hoặc tổ chức các hội nghị gặp gỡ các nhà đầu tư, qua đó tiếp nhận thông tin phản ánh của nhà đầu tư. Hiện tại, chỉ có website của UBCKNN là có mục liên hệ hoạt động, còn website của SGDCK TPHCM tuy có mục liên hệ nhưng không hoạt động, website SGDCK Hà Nội không có mục này. Kinh nghiệm các nước trên thế giới cho thấy, các nguồn tin này có một vai trò vô cùng quan trọng và nếu được tổ chức tốt, thông tin mà chủ thể giám sát nhận được sẽ rất nhiều và phong phú.

Xem tất cả 267 trang.

Ngày đăng: 28/08/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí