áp dụng phương pháp đối chiếu, kiểm tra thông tin như một lưới lọc thông tin trước khi đưa và phân tích đảm bảo sử dụng hiệu quả nguồn thông tin hiện có.
3.2.4 Hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu giám sát, quy trình giám sát và công tác xử lý sau giám sát
3.2.4.1 Hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu giám sát
Trong thời gian qua, BHTGVN nói chung và Chi nhánh Hà Nội nói riêng mới chỉ thực hiện giám sát việc tuân thủ các quy định an toàn trong hoạt động ngân hàng của các TCTD, từ đó đưa ra các kiến nghị, cảnh báo đối với các tổ chức này mà chưa giám sát trên cơ sở đánh giá mức độ rủi ro. Về mặt nguyên lý, tổ chức tham gia BHTG có thể có vi phạm về quy định đảm bảo an toàn trong hoạt động nhưng chưa chắc dẫn đến rủi ro và ngược lại, một tổ chức tham gia BHTG thực hiện tốt các quy định nhưng chưa hẳn đã là một tổ chức kinh doanh tốt mà vẫn có thể xảy ra rủi ro. Một tổ chức kinh doanh tốt cần phải biết cân bằng giữa lợi nhuận và rủi ro để không gây ra những khó khăn về tài chính cho bản thân. Do đó, vai trò của hoạt động giám sát được thể hiện qua khả năng đánh giá mức độ rủi ro của tổ chức tham gia BHTG về sự phù hợp tương xứng giữa hệ thống quản lý rủi ro của các TCTD với khả năng rủi ro mà họ có thể gặp phải. Khi phát hiện tổ chức tham gia BHTG không có khả năng kiểm soát rủi ro, Chi nhánh có quyền yêu cầu họ thực hiện các biện pháp phù hợp để hạn chế rủi ro. Muốn thực hiện được giám sát theo mức độ rủi ro thì BHTGVN cần xây dựng hệ thống chỉ tiêu giám sát đồng bộ, quy trình đánh giá rủi ro phù hợp theo chuẩn mực và thông lệ quốc tế và cần phải có một khung pháp lý phù hợp.
Hiện nay, đối tượng tham gia hoạt động trong lĩnh vực tài chính – ngân hàng ở Việt Nam khá đa dạng, gồm các Ngân hàng thương mại Nhà nước, Ngân hàng thương mại cổ phần, Ngân hàng liên doanh, Ngân hàng nước ngoài, Công ty tài chính và QTDND. Dựa trên các quy định hiện hành cũng như thực tế hoạt động của hệ thống các TCTD hiện nay, cần một lộ trình để chuyển đổi dần từ phương pháp giám sát tuân thủ sang giám sát rủi ro. Trước
tiên, chưa thể chuyển đổi hoàn toàn sang phương pháp giám sát rủi ro mà phải kết hợp giữa giám sát việc tuân thủ pháp luật và giám sát rủi ro. Do vậy, cần xây dựng bộ chỉ tiêu giám sát trên cơ sở hai nhóm chỉ tiêu chính là nhóm chỉ tiêu tuân thủ và nhóm chỉ tiêu dùng cho giám sát rủi ro.
Nhóm chỉ tiêu tuân thủ có thể tiếp tục sử dụng các chỉ tiêu như hiện nay, bao gồm các chỉ tiêu về mức độ an toàn vốn tối thiểu; tỷ lệ khả năng chi trả; tỷ lệ của nguồn vốn ngắn hạn được sử dụng để cho vay trung, dài hạn; giới hạn góp vốn mua cổ phần;… Căn cứ vào việc tính toán các chỉ tiêu này của từng TCTD để đánh giá mức độ tuân thủ các quy định về đảm bảo an toàn trong hoạt động ngân hàng của tổ chức đó.
Nhóm chỉ tiêu sử dụng cho giám sát rủi ro nhằm nhận biết rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường (rủi ro lãi suất, rủi ro tỷ giá), rủi ro thanh khoản, hiệu quả hoạt động và vốn. Đối với mỗi chỉ tiêu, cần có phướng pháp nhận diện và quy tắc đánh giá mức độ rủi ro. Có thể chia các loại rủi ro trên thành hai nhóm cùng thang đo mức độ rủi ro cho mỗi nhóm như sau:
Có thể bạn quan tâm!
- Dư Nợ Của Các Qtdnd Trên Địa Bàn
- Đánh Giá Chung Về Hoạt Động Giám Sát Các Quỹ Tín Dụng Nhân Dân Tham Gia Bảo Hiểm Tiền Gửi Của Bảo Hiểm Tiền Gửi Việt Nam – Chi Nhánh Hà Nội
- Hoàn Thiện Chất Lượng Hoạt Động Giám Sát Các Quỹ Tín Dụng Nhân Dân Tham Gia Bảo Hiểm Tiền Gửi Của Bảo Hiểm Tiền Gửi Việt Nam – Chi Nhánh Hà
- Giám sát các quỹ tín dụng nhân dân tham gia bảo hiểm tiền gửi của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam - Chi nhánh Hà Nội - 13
Xem toàn bộ 110 trang tài liệu này.
Rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường (lãi suất, tỷ giá): Các loại rủi ro này được đo lường dựa trên bốn mức độ: cao, trên trung bình, trung bình và thấp.
Rủi ro thanh khoản, vốn, hiệu quả hoạt động: Các loại rủi ro này được đo lường dựa trên bốn mức độ: tốt, đáp ứng yêu cầu, cần cải thiện và mức xấu.
Xu hướng của các nhóm rủi ro trên được xác định dựa trên đồ thị xu hướng của các chỉ tiêu trong nhóm và đánh giá theo ba loại: xu hướng tăng, xu hướng ổn định, xu hướng giảm.
Thông qua kết quả đánh giá các chỉ tiêu này, cơ quan giám sát sẽ đánh giá được mức độ đủ vốn, khả năng quản lý rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường, rủi ro thanh khoản,… của TCTD. Việc xây dựng bộ chỉ tiêu giám sát an toàn hoạt động ngân hàng như trên là phù hợp với thông lệ quốc tế, bổ sung thêm một công cụ hữu hiệu cho hoạt động giám sát. Hệ thống chỉ tiêu này sẽ giúp:
Phát hiện các TCTD chưa tuân thủ hoặc có xu hướng không đáp ứng được các quy định của pháp luật trong hoạt động ngân hàng.
Nhận diện rủi ro của TCTD để có các biện pháp cảnh báo kịp thời giúp các TCTD tránh khỏi các nguy cơ đổ vỡ gây mất an toàn hệ thống.
Vì vậy, trong thời gian tới, để hoàn thiện công tác giám sát từ xa của BHTGVN và Chi nhánh thì cần chỉnh sửa quy chế giám sát theo hướng chuyển dần từ giám sát tuân thủ sang giám sát trên cơ sở đánh giá rủi ro.
3.2.4.2 Hoàn thiện quy trình giám sát
Trong thời gian qua, hệ thống các TCTD tăng trưởng nhanh chóng cả về số lượng và quy mô đã đặt ra yêu cầu phải có một quy trình tốt hơn cho hoạt động giám sát của BHTGVN nói chung và của Chi nhánh nói riêng. Thực tế cho thấy quy trình giám sát hiện nay của BHTGVN không khác xa nhiều so với mô hình CAMELS của NHNN và bản thân nó cùng hệ thống cảnh báo phải được bổ sung, sửa đổi và hoạch định ngay từ đầu để trước hết là tránh được sự chắp vá, sau đó là không phá vỡ hệ thống phần mềm đồng thời dễ dàng bổ sung, chỉnh lý khi cần thiết. Điều này đòi hỏi phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa việc xây dựng mô hình về chuyên môn cùng giải pháp về công nghệ thông tin.
Điều cần thiết là phải đưa ra đánh giá, xếp loại các TCTD trên địa bàn một cách đầy đủ, chính xác để dễ dàng hơn trong việc nhận biết dấu hiệu, từ đó đưa ra các khuyến cáo và có biện pháp chấn chỉnh, ngăn ngừa những sự cố xảy ra trước khi quá muộn. Để đánh giá một cách toàn diện các TCTD, cần phải có quy trình đánh giá trên cả hai nhóm chỉ tiêu: nhóm chỉ tiêu định tính và nhóm chỉ tiêu định lượng.
Về nhóm chỉ tiêu định lượng, khó khăn nhất là nguồn thông tin để tính toán. Ngoài các thông tin do các TCTD cung cấp, đòi hỏi Chi nhánh cần phải có các thông tin chi tiết, chính xác từ các NHNN tỉnh, thành phố, từ Ngân hàng Hợp tác xã và các đơn vị liên quan. Các chỉ tiêu này về cơ bản là chỉ tiêu vi mô và chỉ cần có đủ dữ liệu đầu vào là có thể tính toán ra các kết quả cần thiết một cách nhanh chóng và chính xác.
Về nhóm chỉ tiêu định tính, đây là một yêu cầu rất khó bởi vì công tác giám sát hiện nay chỉ nhận được thông tin qua báo cáo. Để có được đánh giá về nhóm chỉ tiêu này, Chi nhánh cần phối hợp với nhiều đơn vị có liên quan khác như cơ quan pháp luật, cơ quan thuế, chính quyền địa phương, người gửi tiền.
Ngoài ra, cần có một quy trình đo lường và nhận diện rủi ro để tính toán được các mức độ rủi ro dựa trên những thông tin có được. Các bước của quy trình cụ thể như sau:
Bước 1: Tiếp nhận báo cáo, thu thập thông tin đầu vào.
Bước 2: Tính toán các chỉ tiêu dựa trên bộ chỉ tiêu giám sát an toàn hoạt động ngân hàng, căn cứ các thang đo đã có, cán bộ giám sát thực hiện đánh giá từng chỉ tiêu trong bộ chỉ tiêu giám sát theo mức độ rủi ro và xu hướng rủi ro.
Bước 3: Tổng hợp mức độ và xu hướng theo từng loại rủi ro, tổng hợp mức độ, xu hướng rủi ro chung của TCTD.
Sau khi có kết quả về mức độ và xu hướng rủi ro, kết hợp cùng kết quả định lượng về đảm bảo an toàn trong hoạt động ngân hàng, cán bộ giám sát sẽ tiến hành phân tích, đánh giá và xếp loại TCTD, từ đó đưa ra các phương án xử lý, cảnh báo đối với TCTD có vấn đề hoặc cần lưu ý.
Một quy trình giám sát hoàn chỉnh cần có hệ thống cảnh báo sớm. Cảnh báo sớm bao gồm hai loại là cảnh báo xa và cảnh báo gần. Hiện nay hệ thống cảnh báo của Chi nhánh đang chủ yếu tập trung ở cảnh báo xa mà chưa thật chú ý đến cảnh báo gần. Việc cảnh báo gần là cảnh báo ở tầm vi mô trên cơ sở các chỉ tiêu đã đặt ra. Các chỉ tiêu này nói lên tình trạng của các TCTD. Từ đó, Chi nhánh có thể xác định được những vấn đề đang nổi lên để tập trung vào những tổ chức, vào những chỉ tiêu có tình trạng yếu kém tiềm tàng. Cảnh báo xa được hình thành từ nhận định giám sát vĩ mô. Các chỉ tiêu cảnh báo xa được xây dựng trên cơ sở theo dõi các xu hướng tài chính và kinh tế chủ yếu tác động đến hoạt động của các TCTD này, chẳng hạn như tình hình lãi suất,
những thay đổi trong hệ thống ngân hàng, những quy định pháp lý mới tác động đến hoạt động của lĩnh vực tài chính – ngân hàng. Thực chất của giám sát vĩ mô là đưa ra những nhận định có tính chất chiến lược trên cơ sở về dữ liệu xếp loại các TCTD cũng như những dữ liệu thống kê khác, trên cơ sở đó có những quyết sách để xử lý một TCTD trong các tình huống cụ thể. Do đó, trong cảnh báo của BHTG cần thực hiện được đầy đủ cả cảnh báo xa và cảnh báo gần. Một hệ thống cảnh báo hợp lý và hiệu quả sẽ hạn chế một cách tối đa nhất sự đổ vỡ của các TCTD.
Nếu xây dựng và triển khai được mô hình cảnh báo sớm, BHTGVN nói chung và Chi nhánh Hà Nội nói riêng sẽ không chỉ giảm bớt được việc chi trả tiền bảo hiểm cho các tổ chức tham gia BHTG, giúp các tổ chức tham gia BHTG bảo toàn vốn mà hơn nữa còn giúp các tổ chức này hoạt động an toàn và hiệu quả hơn, góp phần vào việc ổn định hệ thống ngân hàng và phát triển kinh tế xã hội.
3.2.4.3 Công tác xử lý sau giám sát
Trên thực tế hiện nay, mức độ xử lý của phòng Giám sát tập trung chủ yếu ở bước phạt đối với các đơn vị vi phạm về phí BHTG, nhắc nhở và đôn đốc về nộp báo cáo còn nội dung quan trọng nhất liên quan đến sự tồn tại và phát triển của các TCTD vẫn chưa làm được. Hệ thống cảnh báo về tỷ lệ an toàn trong hoạt động ngân hàng còn mang nặng tính hình thức, tính pháp lý còn hạn chế. Đây là một trong những nguyên nhân làm cho BHTGVN chưa thực sự có tiếng nói và vị trí, vai trò một cách đúng đắn trong hoạt động của các TCTD.
Để phát huy vai trò và hiệu quả của chính sách BHTG, cần nâng cao vị thế của BHTGVN trong hệ thống mạng an toàn tài chính quốc gia. Các thông báo, cảnh báo của BHTGVN đối với các TCTD cần được nâng cao tính hiệu lực và hiệu quả, phản ánh chính xác tình trạng thực tế của đơn vị và được coi là một nguồn thông tin quan trọng để các TCTD điều chỉnh lại hoạt động của mình khi cần thiết.
- Đối với các vi phạm thuộc thẩm quyền: phòng Giám sát Chi nhánh trực tiếp ban hành văn bản hoặc tham mưu cho Giám đốc Chi nhánh ban hành văn bản chỉ đạo đơn vị vi phạm thực hiện nghiêm túc các kiến nghị và xử lý các vi phạm theo đúng phạm vi thẩm quyền của mình.
- Đối với các kiến nghị vượt quá thẩm quyền của Chi nhánh: báo cáo lên Trụ sở chính BHTGVN hoặc NHNN.
Chi nhánh đôn đốc, theo dõi tình hình thực hiện các kiến nghị, quyết định xử phạt, thông báo, cảnh báo của các TCTD, đánh giá ý thức chấp hành của họ. Định kỳ yêu cầu đơn vị báo cáo tình hình thực hiện các kiến nghị kèm các tài liệu, chứng từ cụ thể minh chứng cho việc thực hiện các kiến nghị và có biện pháp, chế tài xử lý đối với những tổ chức không chấp hành để đảm bảo đơn vị thực hiện một cách nghiêm túc các kiến nghị, cảnh báo.
3.2.5 Hoàn thiện phần mềm giám sát
Công nghệ thông tin đóng vai trò quan trọng hàng đầu đối với hoạt động giám sát từ xa vì đây là yếu tố quyết định hiệu quả hoạt động thu thập thông tin đầu vào và hình thành kho dữ liệu tập trung để tiến hành phân tích, đánh giá, phân loại và xếp hạng các tổ chức tham gia BHTG. Với những nước có cơ sở vật chất kỹ thuật phát triển và nền tảng tài chính tốt, nghiệp vụ này được thực hiện bằng mạng lưới thông tin kỹ thuật tự động và đánh giá bằng các mô hình toán kinh tế lượng được lập trình trên máy tính cũng có thể đưa ra những kết quả rất đáng tin cậy.
Dự án Hệ thống thông tin quản lý và hiện đại hóa ngân hàng (Dự án FSMIMS), kết hợp với định hướng xây dựng một hệ thống tập trung và tích hợp cho các quy trình nghiệp vụ trên nền tảng công nghệ thông tin hiện đại. Tin học hóa toàn bộ các hoạt động nghiệp vụ cũng như hậu cần, BHTGVN cần hoàn thiện cơ chế quản trị công nghệ thông tin, tăng cường bảo mật và an toàn hệ thống tối đa hóa hiệu quả hoạt động của BHTGVN theo đúng quy định của pháp luật và tiếp cận với các thông lệ tiên tiến trên thế giới.
Thời gian qua, mặc dù phần mềm giám sát đã có nhiều cải tiến nhất định, đối tượng giám sát được phân chia rõ ràng. Tuy nhiên việc tổng hợp số liệu và kiểm tra số liệu vẫn dựa vào phương pháp thủ công là chủ yếu. Do đó, cần nâng cấp các tính năng cho phần mềm giám sát, nâng cao hiệu suất trong việc kiểm tra tính chính xác của thông tin, dữ liệu theo các chỉ tiêu quy định và xử lý dữ liệu theo các thông số cần thiết. Ngoài ra, hiện nay phần mềm giám sát của BHTG vẫn còn thiếu những module về xếp hạng và cảnh báo các tổ chức tham gia BHTG. Vì vậy, trong thời gian tới cần hoàn thiện hệ thống phần mềm để có thể đánh giá toàn diện các tổ chức tham gia BHTG từ lúc có thông tin, dữ liệu đầu vào đến lúc xếp hạng và cảnh báo được các tổ chức này. Một hệ thống phần mềm giám sát hiện đại và hoạt động ổn định sẽ giúp tính toán và phân tích số liệu một cách nhanh chóng và chính xác, đáp ứng được yêu cầu về tính kịp thời của hoạt động giám sát.
3.2.6 Hoàn thiện công tác kiểm tra, kiểm soát đối với hoạt động giám
sát
Để công tác kiểm tra, kiểm soát đối với hoạt động giám sát đạt hiệu quả
tốt, trước tiên hệ thống văn bản cần phải được thực hiện đúng đắn, thể hiện một cách rõ nét, mạch lạc, logic những công việc cụ thể của các phòng ban, trên cơ sở đó tránh được những bất đồng và trùng lặp giữa các phòng ban. Đặc biệt phải kết hợp chặt chẽ giữa giám sát và kiểm tra vì hai bộ phận này cần được kết hợp một cách nhuần nhuyễn.
Phòng Giám sát chuyển kết quả phân tích và giám sát cho phòng Kiểm tra để nghiên cứu, nếu có vấn đề cần xem xét thêm thì tổ chức kiểm tra, xác minh cụ thể và có biện pháp xử lý kịp thời.
Phối hợp giữa giám sát và kiểm tra trong việc nhận các báo cáo của các TCTD, nghiên cứu kết quả giám sát và kiểm tra để đối chiếu, so sánh và từ đó đưa ra đánh giá, xếp loại đối với TCTD.
3.3 Một số kiến nghị
3.3.1 Kiến nghị đối với Chính phủ
Hoàn thiện cơ sở pháp lý cho BHTGVN
Luật BHTG là văn bản pháp lý cao nhất và toàn diện nhất về BHTG, trong đó quy định đầy đủ các nội dung về hoạt động BHTG ở Việt Nam, trong đó xác định rõ vị trí, chức năng, nhiệm vụ của tổ chức BHTG, cụ thể hóa quyền và nghĩa vụ của tổ chức tham gia BHTG, người được bảo hiểm tiền gửi, quy định cụ thể về tiền gửi được bảo hiểm, thời điểm chi trả bảo hiểm ... qua đó góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động BHTG, bảo vệ tốt hơn quyền lợi người gửi tiền và góp phần duy trì sự ổn định của hệ thống các TCTD. Tuy nhiên, trước xu thế phát triển trong điều kiện mới, Chính phủ cần phải được sửa đổi, bổ sung Luật BHTG để phù hợp với tình hình mới và sự thay đổi của hệ thống pháp luật hiện hành. Bên cạnh đó, Chính phủ cần tiếp tục xây dựng các văn bản dưới luật BHTG làm cơ sở pháp lý cho hoạt động giám sát từ xa của BHTGVN, từ đó nâng cao chất lượng giám sát của BHTGVN. Ngoài ra, sau quá trình thực thi luật BHTG, cần có nghiên cứu đánh giá tình hình thực hiện, kết hợp học hỏi kinh nghiệm quốc tế, từ đó nghiên cứu chỉnh sửa luật và các văn bản dưới luật liên quan theo xu hướng tăng quyền cho BHTGVN theo thông lệ quốc tế. Trên cơ sở đó, BHTGVN mới có đầy đủ thẩm quyền thực hiện nhiệm vụ và vai trò của mình trong hệ thống tài chính: bảo vệ người gửi tiền, góp phần đảm bảo an toàn hệ thống tài chính ngân hàng và ổn định nền kinh tế vĩ mô.
Xây dựng cơ chế phối hợp, trao đổi thông tin giữa BHTGVN với các đơn vị, cơ quan chức năng có liên quan
Mặc dù ra đời muộn và còn nhiều hạn chế nhưng đến nay, thị trường tài chính Việt Nam đã phát triển với đầy đủ các bộ phận, bao gồm: thị trường tiền tệ, thị trường ngân hàng, thị trường chứng khoán, thị trường ngoại hối, thị trường bảo hiểm, thị trường công cụ tài chính phái sinh. Hệ thống giám sát tài chính Việt Nam hiện nay được tổ chức theo mô hình thể chế giám sát chuyên