Giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ Hiệp định các biện pháp đầu tư liên quan tới thương mại (TRIMs) - 11

lực phát triển trong các ngành có liên quan. Ngoài ra, đối với các dự án chế biến các sản phẩm sữa, dầu thực vật, thuộc da, chế biến gỗ, sản xuất giấy cũng thuộc đối tượng các ngành phải thực hiện chương trình nội địa hoá nhằm phát triển nguồn nguyên liệu thô trong nước. Song, do tính đặc thù nên phần lớn các dự án thuộc ngành này được xây dựng với mục đích sử dụng nguồn nguyên liệu rẻ, sẵn có trong nước. Do vậy, các nhà đầu tư sẽ tự nguyện thực hiện chính sách nội địa hoá, kể cả trong trường hợp không được khuyến khích hoặc ưu đãi [26].

Có thể thấy rằng các biện pháp trên chỉ là những biện pháp mang tính định hướng nhằm phát triển các ngành sản xuất trong nước, nhưng mang tính bắt buộc (điều kiện đầu tư phải đáp ứng yêu cầu theo quy hoạch), nhằm mục đích yêu cầu sử dụng các sản phẩm trong nước nhưng lại không được hưởng lợi ích về thuế đối với nhà đầu tư nước ngoài, không tạo ra sự phân biệt đối xử (về thuế) đối với các sản phẩm trong nước so với các sản phẩm nhập khẩu. Tuy nhiên, chính sách này sẽ chỉ phù hợp đối với những ngành có các sản phẩm có sẵn trong nước, với giá thành và chi phí rẻ, còn đối với những ngành sản xuất đòi hỏi nhà đầu tư phải thực hiện sản xuất trong nước dường như sẽ khó tạo sự thu hút đầu tư từ nước ngoài.

Đối với yêu cầu về hạn ngạch, hiện nay Việt Nam chỉ áp dụng hạn ngạch thuế quan theo cam kết với WTO trong các sản phẩm như: Muối; Thuốc lá nguyên liệu; Trứng gia cầm; Đường tinh luyện, đường thô [31, Điều 5]. Đối với hàng hóa là thuốc lá điếu, xì gà được nhà nước độc quyền nhập khẩu: “Tổng công ty Thuốc lá Việt Nam (VINATABA) là thương nhân nhập khẩu thuốc lá điếu, xì gà theo cơ chế thương mại nhà nước” [8, Điều 6].

Có thể thấy rằng, kể từ khi gia nhập WTO cho tới thời điểm hiện tại chúng ta là một trong những quốc gia thành viên thực hiện Hiệp định TRIMs một cách đầy đủ và nghiêm túc, các biện pháp về bảo đảm đầu tư được quy định tại Luật Đầu tư năm 2005 (sau khi là thành viên của WTO) và tiếp tục thể hiện thông qua Luật Đầu tư 2014, trong đó Nhà nước bảo đảm quyền sở hữu tài sản của nhà đầu tư không bị quốc hữu hóa hoặc tịch thu bằng biện pháp hành chính [24, Điều 9]; bảo đảm hoạt động đầu tư kinh doanh [24, Điều 10] nhà nước không bắt buộc nhà đầu tư phải

thực hiện những yêu cầu (liên quan tới TRIMs), như: yêu cầu về sử dụng các sản phẩm trong nước; yêu cầu về tỉ lệ nội địa hóa; về cân đối ngoại tệ; cân đối giá trị xuất nhập khẩu... ngoài ra Luật đầu tư còn quy định bảo đảm chuyển tài sản của nhà đầu tư nước ngoài ra nước ngoài, sau khi thực hiện đầy đủ nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật, nhà đầu tư nước ngoài được chuyển ra nước ngoài các tài sản: Vốn đầu tư, các khoản thanh lý đầu tư; Thu nhập từ hoạt động đầu tư kinh doanh; Tiền và tài sản khác thuộc sở hữu hợp pháp của nhà đầu tư [24, Điều 11].

Nói cách khác, Việt Nam là một trong những quốc gia thành viên WTO đã thực hiện các cam kết liên quan tới Hiệp định TRIMs một cách nghiêm túc, khi không tạo ra sự phân biệt đối xử giữa hàng hóa trong nước với hàng hóa nhập khẩu. Nhưng đồng nghĩa với việc loại bỏ TRIMs trong quá trình hội nhập toàn cầu chúng ta phải đối mặt với nhiều thách thức liên quan tới việc phát triển kinh tế đất nước, phải bảo vệ và phát triển các ngành sản xuất có thế mạnh của mình. Chính vì vậy, yêu cầu cấp thiết cần phải đặt ra trong bối cảnh tuân thủ quy định của Hiệp định TRIMs là bắt buộc chúng ta phải nâng cao năng lực của các doanh nghiệp trong nước không chỉ về năng lực tài chính, quy mô hoạt động, chất lượng sản phẩm, giá trị sản xuất mà còn phải nâng cao trình độ quản lý để không bị lép vế trước nhà đầu tư nước ngoài. Theo thống kê cho thấy, các doanh nghiệp Việt Nam phần lớn là những doanh nghiệp vừa và nhỏ [38], có rất ít sự liên kết giữa các doanh nghiệp cùng ngành nghề cùng lĩnh vực vì vậy không tạo ra được sự thống nhất trong phương hướng hoạt động sản xuất, nên dễ bị ảnh hưởng từ tác động bên ngoài của thị trường, đặc biệt là những tác động xấu (tác động tiêu cực về cung cầu, tác động về giá cả). Ngược lại chúng ta có rất ít doanh nghiệp lớn chủ yếu vẫn là một số doanh nghiệp có cổ phần vốn nhà nước nhưng hoạt động kém hiệu quả. Không tạo ra được những bước đột phá trong sản xuất kinh doanh.

Đối với nhóm doanh nghiệp vừa và nhỏ. Chúng ta cần phải xác định đây là nhóm doanh nghiệp về cơ bản sẽ tạo ra sự năng động, cạnh tranh (cạnh tranh lành mạnh) thúc đẩy sự phát triển kinh tế của đất nước trong quá trình hội nhập. Vì vậy, trong quá trình hội nhập toàn cầu hóa hiện nay các doanh nghiệp này cần phải có sự

liên kết chặt chẽ với nhau trong các ngành hàng có liên quan, nhằm tạo ra một chuỗi sản xuất, dịch vụ, tiêu thụ khép kín. Nhằm hạn chế tối đa ảnh hưởng của các nhà đầu tư nước ngoài với nguồn vốn, trình độ quản lý, kỹ thuật vượt trội, cùng với kinh nghiệm trong nhiều năm phát triển trước chúng ta. Đơn cử trong một số ngành bán lẻ tại Việt Nam, một số doanh nghiệp với những thương hiệu nổi tiếng như BigC, METRO... hiện nay đang trong tay của nhà đầu tư nước ngoài cụ thể là nhà đầu tư từ các nước thành viên ASEAN, Trung Quốc có thể nhận thấy rằng đây là một trong những động thái nhằm vào việc điều tiết kênh phân phối sản phẩm (các loại mặt hàng bán lẻ nằm trong chuỗi các siêu thị) điều này gây ra những bất lợi đáng kể đối với các sản phẩm trong nước nếu nhà đầu tư này chỉ phân phối các sản phẩm nhập khẩu từ những chuỗi sản xuất của họ ở các nước thành viên. Đặc biệt trong thời gian tới đây khi chúng ta thực hiện các cam kết về giảm mức thuế xuất các mặt hàng trong WTO, mức thuế nhập khẩu hàng theo các hiệp định thương mại, mức thuế khi cộng đồng ASEAN được thành lập. Có thể thấy trong điều kiện bình thường thuế nhập khẩu được coi là rào cản đối với hàng hóa nhập khẩu và cũng là lợi thế đối với sản phẩm trong nước. Tuy nhiên, trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay trong các Hiệp định thương mại đa phương các thành viên đều có những lợi ích riêng cốt lõi của mình vì vậy trong các hiệp định thường hướng tới việc loại bỏ mức thuế xuất nhập khẩu (chủ đề chính đối với thương mại hàng hóa trên thế giới trong cả lịch sử cũng như hiện tại). Vì vậy, việc thiếu sự liên kết chặt chẽ giữa các ngành hàng, các doanh nghiệp trong nước có thể dẫn tới việc chiếm ưu thế của các nhà đầu tư nước ngoài ngay tại thị trường trong nước, kéo theo đó có thể là những ảnh hưởng tiêu cực tới quá trình tiêu thụ các sản phẩm sản xuất trong nước.

Đối với các doanh nghiệp lớn, chủ yếu là vốn nhà nước. Theo quy luật chung của nền kinh tế thị trường thì nhà nước không nên vừa thực hiện ban hành các chính sách về kinh tế, vừa nắm giữ cổ phần, vừa thực hiện sản xuất kinh kinh doanh. Vì có thể sẽ dẫn tới một nền kinh tế phi thị trường, sản xuất và tiêu thụ hàng hóa không theo quy luật cung cầu mà theo sự điều chỉnh của nhà nước, đi ngược lại sự quy luật phát triển tự nhiên của nền kinh tế (theo quy luật cung cầu). Thực tiễn trong quá

khứ đã chứng minh, nền kinh tế kế hoạch hóa tập chung mà Đảng và nhà nước ta đã thực hiện trong quá khứ tuy đã có sự nghiên cứu, có những bước đi đầy cân nhắc trong quá trình xây dựng đất nước nhằm đưa nước ta từ nền nông nghiệp lạc hậu quá độ tiến tới chủ nghĩa xã hội với nền công nghiệp hiện đại, tuy nhiên trong quá trình triển khai cũng đã mắc một số sai lầm nghiêm trọng về đường lối chính sách khi chưa cân nhắc đầy đủ những yếu tố cần thiết cần phải có trong công cuộc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, như: điều kiện hạ tầng cơ sở, cơ sở vật chất, đặc biệt là trình độ quản lý của đội ngũ cán bộ... Vì vậy, đối với các doanh nghiệp lớn có vốn nhà nước. Cần phát huy lợi thế về quy mô, nguồn vốn sẵn có tập chung đổi mới phương thức quản lý (theo hướng nhà nước không can thiệp vào công việc sản xuất của doanh nghiệp); nhanh chóng tiến hành công cuộc cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước tiến tới việc thoái hoàn toàn vốn đầu tư của nhà nước trong các doanh nghiệp, từ đó nâng cao trình độ quản lý của doanh nghiệp, tăng cường trách nhiệm trong hoạt động sản xuất kinh doanh tạo ra động lực phát triển sản xuất của doanh nghiệp, của nền kinh tế.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 104 trang tài liệu này.

Qua quá trình phân tích, tìm hiểu các tranh chấp liên quan tới TRIMs và kinh nghiệm đã rút ra được từ một số nước thành viên đã sử dụng, cùng với thực tiễn thực hiện tại Việt Nam, ngoài việc nâng cao năng lực của doanh nghiệp trong nước trong quá trình tuân thủ TRIMs ở một số lĩnh vực thế mạnh, chúng ta cần thiết phải sử dụng TRIMs một cách hiệu quả và hợp lý (giống với các quốc gia thành viên đang phát triển đã và đang sử dụng) nhằm tạo ra sự phát triển mạnh mẽ, nhanh chóng đối với một số ngành nghề quan trọng theo định hướng phát triển của quốc gia, từng bước đưa nước ta trở thành nước công nghiệp hiện đại.

Ví dụ cụ thể trong ngành sản xuất công nghiệp ô tô hiện nay ở nước ta, với quan điểm: “Phát triển công nghiệp ô tô trở thành ngành công nghiệp quan trọng để phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa, góp phần phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm an ninh, quốc phòng của đất nước” cùng với đó là mục tiêu: “Phát triển ngành công nghiệp ô tô Việt Nam trở thành ngành công nghiệp quan trọng của đất nước, đáp ứng tối đa nhu cầu thị trường nội địa về các loại xe tải, xe khách

Giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ Hiệp định các biện pháp đầu tư liên quan tới thương mại (TRIMs) - 11

thông dụng và một số loại xe chuyên dùng; phấn đấu trở thành nhà cung cấp linh kiện, phụ tùng và một số cụm chi tiết có giá trị cao trong chuỗi sản xuất công nghiệp ô tô thế giới, góp phần vào tăng trưởng kinh tế và thúc đẩy sự phát triển của các ngành công nghiệp khác” [14]. Tuy có áp dụng, định hướng tỉ lệ nội địa hóa trong ngành sản xuất ô tô trong nước cùng với việc thu hút đầu tư từ các nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực sản xuất và lắp ráp ô tô. Tuy nhiên, việc áp dụng tỉ lệ nội địa hóa (nhằm thực hiện có hiệu quả mục tiêu đề ra) không đi cùng với những ưu đãi về thuế và phí, không tạo ra những ưu tiên, ưu đãi đặc biệt đối với các nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực này vì vậy có thể có những tác động tiêu cực, làm giảm hiệu quả đầu tư, không tạo ra được động lực phát triển cho doanh nghiệp đầu tư nói riêng và ngành sản xuất trong nước nói chung. Chính vì vậy, việc sử dụng TRIMs trong một thời gian cụ thể (từ 02 tới 03 năm) đối với ngành sản xuất ô tô tại nước ta hiện nay là điều cần thiết, nhằm tạo ra sự phát triển nhanh chóng đối với ngành công nghiệp ô tô trong nước, cần phải hướng những ưu đãi cho các đối tác chiến lược trong lĩnh vực này (các doanh nghiệp liên doanh của một số quốc gia thành viên đang đầu tư trong lĩnh vực sản xuất, lắp ráp ô tô).

Tuy nhiên, việc sử dụng TRIMs cần phải được cân nhắc tính toán lợi ích có được. Thứ nhất, cần phải tạo ra sự phát triển nhanh chóng đối với các sản phẩm, ngành hàng được ưu tiên sản xuất và tiêu thụ trong nước. Thứ hai, chú ý tới thời điểm áp dụng TRIMs để đạt hiệu quả cao nhất. Thứ ba, phải có sự chuẩn bị tinh thần sẵn sàng tham vấn, sẵn sàng tham gia cơ chế giải quyết tranh chấp liên quan tới TRIMs. Thứ tư, cần có sự chuẩn bị trước về khung thể chế pháp lý liên quan tới TRIMs nhằm kịp thời sửa đổi cho phù hợp với quy định của WTO.

Liên hệ với một số hiệp định có liên quan tới thương mại và đầu tư mà Việt Nam đã đàm phán gia nhập

Việc đàm phán và gia nhập các hiệp định thương mại tự do đối với các quốc gia và cũng lãnh thổ trên thế giới là một bước đi quan trọng trong tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam. Bằng sự chuẩn bị và lỗ lực của mình, trong thời gian gần đây chúng ta đã bước đầu đàm phán và ký kết các hiệp định thương mại quốc tế

quan trọng như, Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EU-Vietnam Free Trade Agreement - EVFTA) ngày 02/12/2015, dưới sự chứng kiến của Thủ tướng Chính phủ Việt Nam và Chủ tịch Ủy ban châu Âu, Bộ trưởng Bộ Công Thương Việt Nam và Cao ủy Thương mại EU đã ký Tuyên bố về việc chính thức kết thúc đàm phán hiệp định; Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (Trans-Pacific Strategic Economic Partnership Agreement – TPP) ký kết ngày 04/02/2016 bởi Bộ trưởng phụ trách thương mại của 12 nước thành viên: Ốt-xtrây- lia, Bru-nây, Ca-na-đa, Chi-lê, Nhật Bản, Ma-lai-xi-a, Mê-hi-cô, Niu Di-lân, Pê-ru, Xinh-ga-po, Hoa Kỳ và Việt Nam. Tuy hiện tại các Hiệp định này chưa có hiệu lực về mặt pháp lý và cần phải có sự phê chuẩn của các quốc gia thành viên nhưng việc đàm phán ký kết các hiệp định trên có tác động lớn tới việc hình thành và phát triển các chính sách thương mại của chúng ta ngay tại thời điểm hiện tại.

Đối với các cam kế về đầu tư, cả ở TPP (Chương 9 về đầu tư) và EVFTA (Chương về thương mại dịch vụ, đầu tư và thương mại điện tử) đều có những quy định liên quan tới việc bảo vệ nhà đầu tư nước ngoài, các cam kết về nguyên tắc đối xử quốc gia và đối xử tối huệ quốc trong đầu tư, trong đó mỗi Bên phải dành cho nhà đầu tư của Bên kia sự đối xử không kém thuận lợi hơn sự đối xử dành cho nhà đầu tư của nước mình, hoặc nhà đầu tư của Bên không phải thành viên Hiệp định. Nội dung liên quan tới đầu tư nước ngoài chủ yếu được phát triển từ những quy định của TRIMs trong WTO, nhưng được giải thích và quy định cụ thể hơn liên quan tới các biện pháp, yêu cầu doanh nghiệp phải thực hiện để được phép đầu tư: những yêu cầu về xuất khẩu; những yêu cầu về hàm lượng nội địa; những yêu cầu về tiêu thụ trong nước; những yêu cầu về cân đối thương mại; những yêu cầu bắt buộc về loại sản phẩm; những yêu cầu về chuyển giao công nghệ. Hoặc những yêu cầu để nhận được những khoản ưu đãi về đầu tư: yêu cầu về hàm lượng nội địa; những yêu cầu về tiêu thụ trong nước (phải mua, sử dụng hoặc áp dụng chế độ ưu đãi cho hàng hóa sản xuất trong nước); những yêu cầu về cân đối thương mại.

Liên quan tới việc giải quyết tranh chấp trong đầu tư, cả hai Hiệp định đều đề cập quy định nhà đầu tư nước ngoài có quyền khởi kiện Chính phủ của nước

thành viên ra cơ quan tài phán quốc tế cụ thể là Trung tâm Giải quyết Tranh chấp Đầu tư Quốc tế (theo Công ước ICSID), đây thường là những điều khoản mà các thành viên phát triển đưa và các hiệp định thương mại tự do nhằm bảo vệ các nhà đầu tư của quốc gia mình, tuy nhiên điều này lại gây ra trở ngại không nhỏ cho Chính phủ các nước đang phát triển khi phải đối mặt với một vụ kiện xuất phát từ một bên là nhà đầu tư khi mà thành viên đó chưa thực sự tham gia nhiều vào các cơ chế giải quyết tranh chấp quốc tế (trở ngại về nguồn nhân lực, tài chính tham gia vụ việc, trở ngại về các khoản bồi thường khi thua kiện...).

Đối với quy định về giải quyết tranh chấp phát sinh từ hiệp định nói chung, cả TPP (Chương 28 Giải quyết tranh chấp) và EVFTA (Chương giải quyết tranh chấp) đều có những quy định chung về vấn đề này. Hầu hết các quy định về giải quyết tranh chấp của cả hai hiệp định này đều dựa trên nền tảng quy định của DSU - cơ chế giải quyết tranh chấp trong WTO. Trong đó, khi phát sinh tranh chấp các bên đều phải thực hiện thủ tục tham vấn giống với thủ tục tham vấn tại WTO, nhằm hướng tới một thỏa thuận các bên cùng thống nhất mà không cần phải dùng tới các bước tố tụng tiếp theo.

Đối với TPP, sau khi các bên đã tổ chức tham vấn về các vấn đề tranh chấp, nếu không có thỏa thuận được đưa ra một Ban hội thẩm sẽ được thành lập để xem xét các khiếu nại và đưa ra các khuyến nghị, phán quyết để giải quyết tranh chấp theo các quy định có liên quan của Hiệp định, phù hợp với các quy định diễn giải của luật quốc tế theo Điều 31 và 32 của Công ước Viên về Luật điều ước quốc tế (1969). Ngoài ra, đối với các nghĩa vụ của Hiệp định WTO đã được đưa vào Hiệp định, Ban hội thẩm sẽ xem xét những giải thích liên quan trong báo cáo của Ban hội thẩm và Cơ quan Phúc thẩm của Cơ quan giải quyết tranh chấp trong WTO [46, Điều 28.11]. Như vậy có thể thấy rằng, các báo cáo của Ban hội thẩm và Cơ quan Phúc thẩm trong WTO là một nguồn tài liệu quan trọng trong giải quyết tranh chấp liên quan tới TPP. Thủ tục làm việc của Ban hội thẩm trong TPP cũng gần giống với WTO, các bên sẽ tham dự các phiên điều trần [46, Điều 28.12]; các thành viên không là một bên trong tranh chấp có thể tham gia với tư cách thứ ba [46, Điều 28.13], ban

hội thẩm cũng sẽ ban hành báo cáo ban đầu [46, Điều 28.16] (để các bên xem xét lại các số liệu thực tế và các tình tiết có liên quan) và báo cáo cuối cùng tới các bên [46, Điều 28.17]. Tuy nhiên khác với WTO, các phiên điều trần trong thủ tục làm việc của Ban hội thẩm sẽ được công khai, nếu các bên không có thỏa thuận khác (ở WTO phiên điều trần được giữ bí mật). Một điểm khác biệt nữa ở TPP là trong quá trình xem xét của mình ban hội thẩm phải xem xét yêu cầu từ các tổ chức phi chính phủ nằm trong lãnh thổ của bất kỳ Bên tranh chấp đưa ra quan điểm bằng văn bản liên quan đến tranh chấp, điều này có thể hỗ trợ Ban hội thẩm trong việc xem xét các biện hộ và lập luận của các bên [46, Điều 28.12], đây có thể là một kênh nhằm gia tăng lợi thế trong giải quyết tranh chấp và rất có lợi cho các thành viên phát triển với nhiều tổ chức phi Chính phủ, đặc biệt là Hoa Kỳ. Ban hội thẩm sẽ đưa ra quyết định của mình bằng sự đồng thuận hoặc theo đa số và có hiệu lực pháp lý đối với các bên (không cần phải có sự thông qua của một cơ quan nào đó) và các bên phải tuân thủ phán quyết của Ban hội thẩm theo Điều 28.18. Tại TPP không có thủ tục tố tụng xem xét lại phán quyết, vì vậy các bên buộc phải tuân thủ phán quyết của Ban hội thẩm, trong một khoảng thời gian hợp lý (tối đa 15 tháng). Các nguyên tắc đình chỉ nghĩa vụ đối với các bên không thực hiện phán quyết cũng giống với WTO, tuy nhiên tại TPP nếu các bên không thực hiện phán quyết có thể bồi thường cho bên thắng kiện một khoản tiền ấn định [46, Điều 28.19].

Như vây, có thể thấy rằng các quy định về giải quyết tranh chấp tại TPP nói chung được xây dựng từ nền tảng của cơ chế giải quyết tranh chấp DSU – WTO, đặc biệt với sự tham gia của Hoa Kỳ là một bên, đối tác quan trọng trong sự hình thành TPP. Vì vậy, không ngạc nhiên rằng các quy định giải quyết tranh chấp mà họ sử dụng rất hiệu quả trong WTO được đưa vào TPP, không những vậy một số quy định mới nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp của họ cũng được đưa vào TPP như, thời gian giải quyết tranh chấp sẽ giảm, không có thủ tục xem xét lại các báo cáo của Ban hội thẩm, tiếng nói của các tổ chức phi chính phủ sẽ được Ban hội thẩm xem xét (những quy định không có tại WTO). Một lần nữa có thể thấy rằng, thông qua cơ chế giải quyết tranh chấp của TPP, Hoa Kỳ sẽ lại tạo ra một sân chơi

Xem tất cả 104 trang.

Ngày đăng: 21/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí