Giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ Hiệp định các biện pháp đầu tư liên quan tới thương mại (TRIMs) - 12

riêng của mình thông qua việc giải quyết các tranh chấp giống với những gì họ đã thực hiện ở WTO.

Đối với EVFTA, sau khi tham vấn không thành công, tranh chấp sẽ được xem xét bởi Ban trọng tài. Vì EVFTA là hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và EU, thành phần của Ban trọng tài sẽ bao gồm các trọng tài viên của Việt Nam, EU và các trọng tài viên không phải là công dân, không có hộ khẩu thường trú tại một trong các Bên theo Điều 23 chương giải quyết tranh chấp của EVFTA. Cũng giống với giải quyết tranh chấp của TPP, tại EVFTA hầu hết các quy định về giải quyết tranh chấp đều được phát triển từ DSU của WTO (các phán quyết của DSB cũng được coi là một nguồn tài liệu quan trọng khi được Ban trọng tài sử dụng trong việc giải thích pháp luật liên quan tới các quy định của WTO (Điều 21) với nhiều cải tiến mới như: rút ngắn được thời gian giải quyết tranh chấp khi không có thủ tục xem xét lại báo cáo của Ban trọng tài, và các bên phải tuân thủ phán quyết. Ban trọng tài sẽ ra quyết định bằng sự đồng thuận hoặc theo đa số (Điều 22)...

Ngoài ra, các biện pháp giải quyết tranh chấp thông qua trung gian, hòa giải hoặc bằng trọng tài được các bên ghi nhận và có thể đưa ra tại bất cứ thời điểm nào trong quá trình giải quyết tranh chấp trong cả TPP và EVFTA.

Để sẵn sàng tham gia tham vấn, sẵn sàng giải quyết có hiệu quả các tranh chấp quốc tế nói chung và trong WTO nói riêng, tuy chúng ta đã có những bước chuẩn bị và không ngừng hoàn hiện về thể chế pháp lý liên quan tới vấn đề này, trong suốt quá trình hội nhập quốc tế. Nhưng để nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, nâng cao năng lực giải quyết các tranh chấp và phòng ngừa các rủi ro phát sinh trong quá trình giải quyết tranh chấp nói riêng và hội nhập quốc tế nói chung, chúng ta cần phải có những bước đi đúng đắn, những giải pháp thích hợp trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật và xây dựng thể chế pháp lý liên quan tới giải quyết các tranh chấp quốc tế.

3.2. Phương hướng, giải pháp phòng và giải quyết tranh chấp

3.2.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật

Để hoàn thiện hệ thống pháp luật trong nước nhằm mục đích phòng và giải

quyết hiệu quả các tranh chấp phát sinh trong quan hệ quốc tế, trước hết chúng ta cần phải nắm rõ được mối quan hệ giữa pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia. Trong đó, pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia là hai hệ thống pháp luật độc lập có mối quan hệ biện chứng tác động qua lại, ảnh hưởng lẫn nhau tùy vào điều kiện kinh tế, quan điểm chính trị và tùy thuộc vào từng giai đoạn phát triển của mỗi quốc gia, nhưng tựu chung lại pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia đều xuất phát từ lợi ích chung của chính quốc gia, dân tộc đó và cộng đồng quốc tế. Sự tác động qua lại giữa pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia được thể hiện ở hai khía cạnh: thứ nhất, pháp luật quốc gia ảnh hưởng tới sự hình thành và phát triển của pháp luật quốc tế. Sự hình thành các nguyên tắc và quy phạm pháp luật quốc tế cũng như nội dung hoàn toàn tùy thuộc vào ý chí, thỏa thuận giữa các quốc gia. Pháp luật quốc gia thể hiện sự định hướng về nội dung, tính chất của pháp luật quốc tế. Mọi sự thay đổi, phát triển tiến bộ của pháp luật quốc gia đều tác động tích cực thúc đẩy sự phát triển của pháp luật quốc tế (điều này được thể hiện rất rõ trong quá trình đàm phán, xây dựng Điều ước quốc tế). Thứ hai, pháp luật quốc tế có tác động tích cực nhằm phát triển và hoàn thiện pháp luật quốc gia thông qua thực tiễn thực thi nghĩa vụ thành viên trong các tổ chức quốc tế, Điều ước quốc tế như: quá trình sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật của luật quốc gia sao cho phù hợp với những cam kết quốc tế. Chính vì thế, các quy định có nội dung tiến bộ của khoa học pháp lý quốc tế sẽ dần được chuyển tải vào văn bản quy phạm pháp luật quốc gia. Điều đó sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển và hoàn thiện của hệ thống pháp luật quốc gia. Bên cạnh đó, luật quốc tế còn tác động đến luật quốc gia thông qua vai trò phản ánh tương quan khi điều chỉnh những vấn đề thuộc lợi ích phát triển và hợp tác quốc tế của các quốc gia.

Trong quá trình hội nhập và phát triển hiện nay, một mặt chúng ta cần phải thực hiện đầy đủ, tận tâm, thiện chí các cam kết quốc tế. Mặt khác, chúng ta vẫn phải thực hiện công cuộc xây dựng và phát triển đất nước đồng thời thể hiện và nâng cao quan điểm của mình trên trường quốc tế (trong quá trình hợp tác quốc tế). Để phòng ngừa rủi ro có thể xảy ra và giải quyết có hiệu quả các tranh chấp phát

sinh, vấn đề đầu tiên đặt ra là, chúng ta phải hoàn thiện hệ thống pháp luật theo hướng tuân thủ các quy định của pháp luật quốc tế, tập quán quốc tế, các Điều ước quốc tế mà chúng ta là thành viên nói chung và đối với Hiệp định TRIMs nói riêng. Việc hoàn thiện hệ thống pháp luật cần phải bảo đảm thực hiện đồng bộ đối với các Bộ, Ban, Ngành có liên quan.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 104 trang tài liệu này.

Thứ nhất, phải thực hiện nghiêm túc, hiệu quả các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế mà Việt Nam đã ký kết và tham gia; thường xuyên rà soát các chính sách thương mại, hệ thống hóa các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành; loại bỏ những văn bản, quy định chồng chéo, không còn phù hợp; ban hành các văn bản mới rõ ràng, cụ thể, bảo đảm tính đồng bộ, minh bạch, khả thi, phù hợp với các cam kết quốc tế và tình hình thực tế.

Thứ hai, tích cực tham gia đàm phán các hiệp định thương mại tự do trong khuôn khổ song phương và khu vực. Tiến hành nghiên cứu, tiến tới đàm phán các hiệp định thương mại mới, phù hợp với lợi ích và nhu cầu phát triển kinh tế theo hướng nâng cao vị thế, tiếng nói của Việt Nam trên trường quốc tế.

Giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ Hiệp định các biện pháp đầu tư liên quan tới thương mại (TRIMs) - 12

Thứ ba, hoàn thiện quy định cũng như tổ chức, cơ chế hoạt động và nâng cao năng lực của các cơ quan quản lý cạnh tranh, chống trợ cấp, chống bán phá giá, cơ quan đầu mối về giải quyết tranh chấp quốc tế. Cơ chế phối hợp giữa các doanh nghiệp với cơ quan nhà nước, trong việc điều tra các vụ tranh chấp quốc tế; làm rõ và gắn trách nhiệm đối với các cơ quan trong việc giải quyết tranh chấp quốc tế.

Thứ tư, tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, nhất là các thủ tục liên quan đến đầu tư, xuất nhập khẩu, thuế; đẩy nhanh ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý điều hành, gắn với đó là yêu cầu về đảm bảo an toàn và an ninh mạng, đảm bảo vận hành thông suốt.

Thứ năm, nâng cao trình độ và kỹ năng của cơ quan tham mưu các dự án Luật cho Quốc hội, nâng cao trình độ lập pháp của Đại biểu Quốc hội, nâng cao hiệu quả thực thi trong thực tế của các điều luật khi được ban hành.

Thứ sáu, Xây dựng đề án đổi mới và phát huy vai trò của các tổ chức; hiệp hội ngành nghề; tổ chức chính trị, xã hội trong quá trình xây dựng và thực thi các

chính sách về hội nhập kinh tế quốc tế. Xây dựng kế hoạch, chiến lược phát triển các sản phẩm, ngành hàng cụ thể gắn kết với chiến lược phát triển thương hiệu quốc gia nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu có chiều sâu, hiệu quả và bền vững; thực hiện tốt công tác cảnh báo sớm về các biện pháp phòng vệ thương mại, đồng thời tận dụng tốt các quy định quốc tế về chỉ dẫn địa lý, nguồn gốc xuất xứ, đăng ký bản quyền, thương hiệu để bảo vệ doanh nghiệp và sản phẩm của Việt Nam trong thương mại quốc tế.

Thứ bẩy, Ban hành và thực hiện chính sách nâng cao chất lượng giáo dục, chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. Đặc biệt là đội ngũ Luật sư công tham gia vào các vụ tranh chấp quốc tế, cán bộ làm đầu mối giải quyết tranh chấp quốc tế... Xây dựng kế hoạch về việc cử cán bộ vào làm việc tại các tổ chức quốc tế và các thiết chế đa phương.

Đi đôi với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng nhu cầu hội nhập quốc tế nói chung và yêu cầu về phòng ngừa rủi ro, giải quyết có hiệu quả các tranh chấp quốc tế chúng ta cần phải thực hiện xây dựng và hoàn thiện thể chế pháp lý liên quan tới lĩnh vực này.

3.2.2. Xây dựng và hoàn thiện thể chế

Thể chế có thể được hiểu là cái tạo thành khung khổ trật tự cho các quan hệ của con người, cơ chế thực thi và giới hạn của các quan hệ giữa các bên tham gia trong xã hội; là ý chí chung của cộng đồng xã hội trong việc xác lập trật tự, những quy tắc, những ràng buộc và các chuẩn mực giá trị chung. Hiểu một cách chung nhất thì thể chế là những nguyên tắc xác định mối quan hệ xã hội, định hình cách thức ứng xử của các thành viên trong những phạm vi, quy mô tổ chức xã hội và điều chỉnh sự vận hành của tổ chức xã hội đó. Các chủ thể thực hiện và quản lý sự vận hành xã hội (bao gồm nhà nước, cộng đồng cư dân, các tổ chức xã hội dân sự) trên cơ sở của hệ thống pháp luật, các quy tắc xã hội điều chỉnh các mối quan hệ và các hành vi được thừa nhận của cộng đồng, quốc gia. Cùng với sự thay đổi và phát triển liên tục quan hệ xã hội, vì vậy thể chế có thể thay đổi theo thời gian.

Có thể thấy, thể chế và hiệu lực của thể chế có vai trò quan trọng và quyết

định đối với sự phát triển của quốc gia, dân tộc. Chính vì vậy việc hoàn thiện thể chế pháp lý liên quan tới quá trình hội nhập quốc tế và giải quyết các tranh chấp phát sinh là vấn đề hết sức cần thiết, trong đó chúng ta cần phải xác định rõ vai trò trách nhiệm của doanh nghiệp, của cơ quan nhà nước.

Thứ nhất, cộng đồng doanh nghiệp. Cần phải xác định doanh nghiệp là một phần quan trọng trong quá trình hội nhập và phát triển đất nước, doanh nghiệp phát triển thì đất nước đi lên, doanh nghiệp yếu thì đất nước đi xuống. Vì vậy, chính doanh nghiệp và cộng đồng doanh nghiệp phải ý thức được vai trò của mình trong quá trình phát triển đất nước, phải không ngừng nâng cao năng lực về nguồn vốn, kỹ thuật, nhân lực; tăng cường cơ chế hợp tác, liên kết đối với các doanh nghiệp, hiệp hội, ngành hàng nhằm tạo ra các chuỗi cung ứng, dịch vụ, tiêu thụ; tạo chuỗi giá trị bền vững cho các sản phẩm ưu tiên của quốc gia của vùng, đồng thời giảm thiểu hạn chế ảnh hưởng tác động tiêu cực từ thị trường tới doanh nghiệp. Tăng cường công tác tìm hiểu, phân tích, đánh giá thị trường, thu thập số liệu có liên quan trong cơ chế chính sách thương mại của các nước thành viên. Kịp thời, chủ động cung cấp, đề xuất phương hướng, giải pháp, tài liệu có liên quan khi phát sinh tranh chấp quốc tế hoặc khi lợi ích thương mại của doanh nghiệp bị xâm hại. Chú trọng, phát triển nguồn nhân lực riêng của doanh nghiệp làm nhiệm vụ tham mưu, liên hệ với cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong nước và cơ quan đại diện ngoại giao tại nước ngoài (trong trường hợp cần thiết) và trực tiếp tham gia giải quyết tranh chấp, phải có chế độ đãi ngộ đặc biệt đối với đội ngũ chuyên gia trong lĩnh vực này. Đồng thời, tham gia hỗ trợ hợp lý kinh phí theo đuổi vụ kiện đối với Chính phủ.

Thứ hai, đối với cơ quan nhà nước:

- Đối với Quốc hội, cần phải phát huy vai trò giám sát tối cao và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, nghiên cứu và phê chuẩn các Điều ước quốc tế có lợi cho sự phát triển của đất nước khi chúng ta là thành viên. Kịp thời điều chỉnh các điều luật không phù hợp với quy định của các Điều ước quốc tế.

- Đối với Chính phủ, với vai trò tạo ra cơ chế chính sách, chiến lược phát triển đất nước. Vì vậy, Chính phủ cần phải tạo cơ chế chính sách nhằm nâng cao năng lực

cạnh tranh quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm; cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh; tạo điều kiện thuận lợi để thu hút đầu tư nước ngoài; thực hiện tốt chính sách ưu đãi đầu tư; nâng cao hiệu quả vốn đầu tư và quản lý nợ công. Thực hiện cơ chế tham vấn đối với các doanh nghiệp và các đối tượng liên quan trong quá trình xây dựng chính sách, pháp luật theo nguyên tắc công khai, minh bạch của WTO, lấy lơị

ích của quốc gia, doanh nghiêp

làm trung tâm.

- Các Bộ ngành có liên quan, tăng cường sự tham gia và phối hợp giữa các Bộ, ngành và địa phương, giữa cơ quan quản lý nhà nước và doanh nghiệp trong việc hoạch định chính sách về kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế, bảo đảm được sự nhất quán, cân bằng được lợi ích tổng thể về kinh tế - chính trị, phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước. Tăng cường sự phối hợp liên ngành, liên vùng trong việc xây dựng và triển khai các chiến lược, chương trình hành động, đề án phát triển kinh tế... để phát huy được sức mạnh tổng hợp của cả nền kinh tế trong cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế. Rà soát, khắc phục sự chồng chéo giữa các Bộ, ngành trong việc triển khai các nhiệm vụ liên quan đến hội nhập kinh tế quốc tế; xác định rõ vai trò và trách nhiệm của các bên trong việc xây dựng và triển khai các chiến lược, đề án, chương trình hành động phát triển kinh tế... có liên quan và tác động đến nhiều Bộ, ngành và địa phương.

- Bộ Công thương, với vai trò đại diện lợi ích kinh tế quốc tế của Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế, đề xuất phương án và tổ chức thực hiện quyền và nghĩa vụ liên quan, áp dụng các biện pháp tự vệ, chống bán phá giá, chống trợ cấp. Trong đó Cục Quản lý cạnh tranh trực thuộc Bộ Công thương, đây là cơ quan trực tiếp thực hiện việc điều tra, cảnh báo sớm các vụ kiện thương mại liên quan tới chống bán phá giá, trợ cấp thương mại và các biện pháp phòng vệ của nước ngoài đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam, đồng thời phối hợp với các cơ quan có liên quan thực hiện việc khởi kiện các vụ việc phát sinh. Cần phải nâng cao năng lực, trình độ của cán bộ làm công tác điều tra; cải thiện môi trường, cơ chế phối hợp thông thoáng giữa cơ quan nhà nước với doanh nghiệp trong quá trình điều tra, giải quyết tranh chấp; các biện pháp cơ chế phòng và cảnh báo sớm; quy trình phát hiện,

xử lý tranh chấp từ giai đoạn chuẩn bị hồ sơ và theo đuổi thủ tục giải quyết; xác định cơ quan chủ trì, phối hợp và tham gia giải quyết tranh chấp, cho phép sự tham gia của cộng đồng doanh nghiệp, các tổ chức xã hội, nghề nghiệp khác trong quá trình giải quyết tranh chấp; huy động và sử dụng nguồn kinh phí giải quyết tranh chấp… lấy lợi ích của doanh nghiệp làm trung tâm.

Đồng thời xây dựng và đưa vào hoạt động trung tâm đầu mối giải quyết tranh chấp quốc tế nói chung tại Việt Nam. Với nhiệm vụ tiếp nhận thông tin tranh chấp; trực tiếp thực hiện các thủ tục liên quan tới giải quyết tranh chấp đối với các bên và tại các cơ quan tài phán quốc tế; trực tiếp tham gia vào quá trình giải quyết tranh chấp... thường xuyên cập nhật và nghiên cứu kỹ lưỡng các án lệ của cơ quan tài phán quốc tế, các báo cáo của cơ quan giải quyết tranh chấp tại WTO... rút ra được những bài học kinh nghiệm, đề xuất những giải pháp thích hợp trong quá trình giải quyết tranh chấp, trong quá trình thực thi các cam kết quốc tế, trong việc ban hành các chính sách thương mại... nhằm đem lại lợi ích cao nhất cho quốc gia trong quá trình hội nhập thế giới.

- Bộ Ngoại giao, cần phát huy vai trò của cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài trong việc phối hợp với cộng đồng doanh nghiệp và các cơ quan liên quan trong và ngoài nước để mở rộng thị trường xuất khẩu, xúc tiến thương mại, du lịch và thu hút đầu tư; hỗ trợ bảo vệ quyền lợi của các doanh nghiệp Việt Nam trong các vụ tranh chấp thương mại. Đặc biệt là Phái đoàn đại diện thường trực nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bên cạnh Liên hợp quốc, Tổ chức Thương mại thế giới – WTO và các Tổ chức quốc tế khác tại Geneva, Thụy Sỹ, đây là đầu mối thực hiện các thủ tục giải quyết tranh chấp tại WTO như, tiếp nhận, xử lý các tài liệu có liên quan. Trước hết cần phải kịp thời tham mưu các vấn đề tố tụng liên quan tới giải quyết tranh chấp tại WTO đặc biệt là bảo đảm thực hiện đầy đủ trình tự thủ tục, thời gian, thời hạn trong quá trình giải quyết; chủ động, tích cực tham gia với tư cách là bên thứ ba trong các vụ kiện tại WTO; tăng cường giao lưu phối hợp, các đoàn đại diện ngoại giao của các quốc gia thành viên tại WTO, nâng cao hiệu quả hoạt động vận động hành lang nhằm tăng cường sự ủng hộ của các thành viên

trong các vụ tranh chấp. Chú trọng công tác bồi dưỡng, nâng cao năng lực, chế độ làm việc của cán bộ làm đầu mối và tham gia trực tiếp vào các tranh chấp. Xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác giải quyết tranh chấp quốc tế, bảo đảm có đủ thời gian để tích lũy kinh nghiệm, theo dõi và xử lý các hồ sơ vụ việc về tranh chấp thương mại tại WTO. Tận dụng hiệu quả sự hỗ trợ từ ACWL.

- Bộ Tư pháp, tăng cường tư cách là cơ quan phối hợp, tham gia trong quá trình phòng và xử lý các tranh chấp thương mại quốc tế tại WTO. Kiểm tra, rà soát các văn bản quy phạm pháp luật nhằm bảo đảm tính hợp pháp trong nước và phù hợp với quy định của luật quốc tế. Đẩy mạnh đào tạo và duy trì nguồn nhân lực trong hoạt động pháp lý (cho hội nhập kinh tế quốc tế), có trình độ (đặc biệt là ngoại ngữ), có kinh nghiệm và bảo đảm tính kế thừa; xây dựng và triển khai các Chương trình đào tạo riêng cho các cán bộ làm công tác liên quan trực tiếp đến giải quyết tranh chấp; nâng cao chất lượng của đội ngũ luật sư, chuyên gia pháp lý về thương mại quốc tế nói chung và WTO nói riêng; chủ động tham gia các hoạt động từ khâu chuẩn bị hồ sơ, thực hiện các bước tố tụng để giải quyết có hiệu quả các vụ tranh chấp cụ thể.

Thứ ba, đối với các tổ chức xã hội đặc biệt là Phòng Thương mại và Công nghiệp phát huy hơn nữa vai trò đại diện, thúc đẩy và bảo vệ quyền lợi hợp pháp, chính đáng của cộng đồng doanh nghiệp và người sử dụng lao động ở Việt Nam trong các quan hệ trong nước và quốc tế. Nâng cao vai trò đầu mối liên hệ giữa doanh nghiệp với các cơ quan nhà nước, đại diện cho lợi ích của cộng đồng doanh nghiệp; thường xuyên nghiên cứu, trao đổi, điều tra, khảo sát, đưa ra những nhận định, báo cáo về mức độ hài lòng của doanh nghiệp đối với cơ quan nhà nước trong việc thực thực hiện giải quyết tranh chấp quốc tế... Tích cực tham mưu cho Chính phủ các chính sách nhằm nâng cao năng lực, vị thế của Doanh nghiệp trong trong sự phát triển của đất nước. Phát huy vai trò chủ động tham gia giải quyết các tranh chấp quốc tế liên quan tới doanh nghiệp.

Xem tất cả 104 trang.

Ngày đăng: 21/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí