+ Nhà thuê hợp đồng với xí nghiệp quản lý nhà: Xảy ra tranh chấp giữa các hộ trong một biển số nhà về lối đi chung; ngò đi chung; diện tích đất phụ dùng chung trong một biển số nhà; đất chung trong khuôn viên ngôi nhà nhiều hộ.
+ Dạng nhà tư nhưng chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất: Tranh chấp quyền sử dụng nhà, đất trong nội bộ gia đình, anh chị em, bố con.
+ Tranh chấp quyền sử dụng đất (lối đi chung) giữa các hộ thuê nhà nhà nước với các hộ nhà tư (đã được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất)
+ Hiện nay mới xuất hiện tranh chấp quyền được thuê đất của các Dự án
- ở các huyện ngoại thành:
Tranh chấp đất đai thường tập trung vào các dạng chủ yếu sau:
+ Tranh chấp lối đi, ngò xóm, ranh giới đất ở, đất vườn giữa hai hộ liền kề.
+ Tranh chấp quyền sử dụng đất ở.
+ Tranh chấp đất nông nghiệp phân chia theo Nghị định 64/ CP.
+ Tranh chấp đòi lại ruộng đất cũ trước đây đã vào HTX, tập đoàn sản xuất, nay HTX, tập đoàn sản xuất đã giải thể, chính quyền đã giao cho người khác sử dụng (ví dụ: Đất ao thuộc sở hữu của người dân trước những năm 1960 đã vào HTX nông nghiệp, nay quay lại đòi), những trường hợp này xảy ra nhiều ở các huyện Gia Lâm, Từ Liêm...
+ Chủ cũ đòi lại ruộng đất đối với người mượn sản xuất, cho ở nhờ, nay người được mượn lại đem bán hoặc cho thuê, những người chủ đất cũ bức xúc đòi lại.
+ Chủ cũ đòi lại đất "hương hỏa", đất nhờ người khác trông coi, người được nhờ trông coi qua thời gian dài đã coi như của mình, nay chủ cũ có nhu cầu sử dụng đòi lại.
+ Do đất đai ngày càng có giá trị nên một số trường hợp người dân không ở địa phương đã lâu, nay quay về đòi đất ông cha để lại
+ Anh, chị em đòi thừa kế quyền sử dụng đất đất do cha mẹ để lại.
+ Tranh chấp đất cầm cố, thế chấp.
+ Đòi lại đất trước đây thời kỳ chiến tranh cho đơn vị bộ đội mượn...
2.2. Tình hình hòa giải các tranh chấp đất đai
Hòa giải các tranh chấp đất đai là một trong những biện pháp giải quyết tranh chấp đất đai mang lại hiệu quả và được người dân ưa chuộng bởi lẽ:
Thứ nhất, khác với việc giải quyết các tranh chấp đất đai được thực hiện thông qua các cơ quan công quyền, hòa giải tranh chấp đất đai không mang tính chất bắt buộc, cưỡng chế thi hành mà thể hiện sự thỏa thuận ý chí của các bên. Điều này phù hợp với một trong những nguyên tắc cơ bản của nền kinh tế thị trường là tôn trọng và đề cao quyền tự do kinh doanh của cá nhân.
Thứ hai, xã hội truyền thống Việt Nam chịu ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo Trung Hoa (đề cao tư tưởng "đức trị"), nên người dân (đặc biệt là người dân sống ở khu vực nông thôn) rất coi trọng các giá trị đạo đức. Các quan hệ xã hội bị chi phối mạnh mẽ bởi các quy tắc đạo đức, phong tục tập quán truyền thống hơn là các quy phạm pháp luật. Hơn nữa, trải qua hàng nghìn năm (kể cả thời kỳ bị các thế lực ngoại bang đô hộ), xã nông thôn Việt Nam vẫn trường tồn bền vững là nơi duy trì, bảo tồn các giá trị đạo đức, văn hóa truyền thống. Người dân sống trong các đơn vị làng, xã luôn có ý thức giữ gìn tình đoàn kết giữa các thành viên trong cộng đồng và không chấp nhận sự tồn tại của các yếu tố gây tổn hại đến mối quan hệ khăng khít giữa thành viên với cộng đồng. Đây chính là môi trường thuận lợi để hòa giải ra đời và phát huy tính hiệu quả trong việc giải quyết các tranh chấp nói chung và tranh chấp đất đai nói riêng trong nội bộ nhân dân.
Thứ ba, một đặc điểm cơ bản xuyên suốt quá trình phát triển văn hóa làng, xã là vai trò và sự chi phối của dòng họ, của cộng đồng và các tổ chức quần chúng đối với
toàn bộ đời sống xã hội nông thôn Việt Nam. Trong bối cảnh đó, vai trò và sức mạnh to lớn của dòng họ, các đoàn thể quần chúng ở cơ sở đã ngày càng được phát huy thông qua việc hòa giải những mâu thuẫn, bất đồng trong nội bộ nhân dân. Chính vì vậy, việc hòa giải tranh chấp đất đai được Nhà nước, xã hội khuyến khích thực hiện.
Thứ tư, một ưu thế của biện pháp hòa giải là tính linh hoạt, mềm dẻo, thủ tục thực hiện đơn giản, tiện lợi và ít gây tốn kém về vật chất, nên hòa giải thường được người dân (nhất là người dân ở khu vực nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa) sử dụng để giải quyết các tranh chấp đất đai nảy sinh trong xã hội.
Trên thực tế, biện pháp hòa giải tranh chấp đất đai thường được áp dụng để giải quyết đối với các vụ việc xảy ra ban đầu mang tính chất đơn giản, không phức tạp và mang lại hiệu quả cao, góp phần vào việc ổn định trật tự an toàn xã hội. ở Việt Nam hòa giải tranh chấp đất đai không chỉ được người dân sử dụng mà còn được Nhà nước khuyến khích thực hiện. Các tổ chức hòa giải được thành lập ở cơ sở có nhiệm vụ hòa giải các bất đồng, mâu thuẫn nhỏ nảy sinh trong nội bộ nhân dân. Nhà nước đã ban hành Pháp lệnh về tổ chức và hoạt động hòa giải nhằm hướng dẫn và điều chỉnh hoạt động của các tổ chức này. Các hòa giải viên thường là những người có phẩm chất, đạo đức, nhân cách tốt và có uy tín đối với nhân dân.
* Cơ sở pháp lý để hòa giải các tranh chấp đất đai:
Hòa giải tranh chấp đất đai lần đầu tiên được quy định trong Luật Đất đai năm 1993 và tiếp tục khẳng định tại Luật Đất đai năm 2003.
Luật Đất đai 1993 đã định ra một nguyên tắc quan trọng trong việc giải quyết các tranh chấp đất đai: "Nhà nước khuyến khích việc hòa giải các tranh chấp đất đai trong nhân dân" (khoản 1 Điều 38 Luật Đất đai 1993). Quy định này phù hợp với một nguyên tắc được ghi nhận tại Điều 11 Bộ Luật Dân sự "Trong quan hệ dân sự, việc hòa giải giữa các bên phù hợp với quy định của pháp luật được khuyến khích". Tranh chấp đất đai trước hết là một dạng tranh chấp dân sự đặc biệt, nó liên quan đến quyền chiếm hữu, quyền sử dụng bất động sản giữa những người sử dụng đất với nhau. Vì vậy, hòa
giải tranh chấp đất đai được coi là một cách thức giải quyết tranh chấp đất đai đạt hiệu quả nhất, phù hợp với đặc điểm tâm lý truyền thống của người Việt Nam.
Theo quy định của khoản 1, Điều 38 Luật Đất đai 1993, việc hòa giải các tranh chấp đất đai được tiến hành qua các bước sau đây:
- UBND cấp xã phối hợp với Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức thành viên của Mặt trận, các tổ chức kinh tế khác ở cơ sở và công dân tiến hành hòa giải tranh chấp đất đai giữa các bên.
- Nếu việc hòa giải không thành, các bên đương sự có quyền gửi đơn lên cơ quan hành chính cấp trên (UBND huyện, quận, thị xã) đề nghị được giải quyết.
Điểm khác biệt về quy định này của Luật Đất đai 1993 so với Luật Đất đai 1988 là ở chỗ: UBND cấp xã không còn là cấp trực giải quyết các tranh chấp đất đai phát sinh ở cơ sở, mà chỉ đóng vai trò trung gian giúp đỡ các bên hòa giải.
Luật Đất đai ngày 26/11/2003 tiếp tục đề cao phương thức hòa giải các tranh chấp đất đai, đồng thời có những quy định mới hợp lý hơn, cụ thể hơn. Luật xác định rò: Nhà nước khuyến khích các bên tranh chấp đất đai tự hòa giải hoặc giải quyết tranh chấp đất đai thông qua hòa giải ở cơ sở. Điểm mới của Luật Đất đai ngày 26/11/2003 so với Luật Đất đai ngày 14/7/1993 là các bên được tự hòa giải hoặc thông qua tổ chức hòa giải ở cơ sở để giải quyết tranh chấp đất đai.
Trong trường hợp các bên không hòa giải được thì gửi đơn lên UBND cấp xã nơi có đất tranh chấp yêu cầu giải quyết. UBND cấp xã có trách nhiệm phối hợp với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của mặt trận, các tổ chức xã hội khác để hòa giải tranh chấp đất đai. Thời gian hòa giải là 30 ngày làm việc, kể từ ngày UBND cấp xã nhận được đơn. Kết quả hòa giải tranh chấp đất đai phải được lập thành văn bản có chữ ký của các bên tranh chấp và xác nhận của UBND cấp xã nơi có đất. Trường hợp kết quả hòa giải khác với hiện trạng sử dụng đất thì UBND cấp xã chuyển kết quả hòa giải đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền để giải quyết theo quy định về quản lý đất đai.
Sở dĩ người dân khi có tranh chấp đất đai muốn chọn phương thức hòa giải vì việc hòa giải nếu thành công một mặt sẽ tiết kiệm được một khoản chi phí về vật chất cho các đương sự, mặt khác đảm bảo được tình cảm gia đình, tình làng nghĩa xóm vốn là truyền thống từ bao đời của người dân Việt Nam.
Kết quả điều tra xã hội học về hộ gia đình và quyền sử dụng đất ở Hà Nội của Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp vào tháng 3/2000 [52] cho thấy: Giải pháp phổ biến nhất mà các bên tranh chấp lựa chọn khi giải quyết tranh chấp đất đai là thương lượng với nhau (chiếm tỉ lệ 79,8% số hộ gia đình được hỏi). Thứ hai là đề nghị chính quyền can thiệp (chủ yếu là UBND, gần như không nhờ đến cơ quan thanh tra). Thứ ba là hòa giải với sự có mặt của người thứ ba. Ba giải pháp này có sự khác biệt thống kê giữa các khu vực nội thành và ngoại thành. Người dân ở khu vực nội thành thiên về biện pháp hòa giải, thông qua thương lượng hoặc với sự có mặt của người thứ ba, trong khi đó người dân ở ngoại thành lại tin cậy hơn vào sự can thiệp của chính quyền.
Kết quả điều tra sau đây sẽ chứng minh cho các nhận định trên:
Nội thành | Ngoại thành | Chung | |
1. Thương lượng với nhau | |||
- Số người trả lời | 510 | 288 | 798 |
- Tỷ lệ % | 85,00 | 72,00 | 79,8 |
2. Hòa giải với sự có mặt của người thứ | |||
ba | |||
- Số người trả lời | 212 | 89 | 301 |
- Tỷ lệ % | 35,33 | 22,25 | 30,10 |
Có thể bạn quan tâm!
- Giải quyết tranh chấp đất đai - 2
- Giai Đoạn Từ Khi Hiến Pháp 1980 Có Hiệu Lực Đến Trước Khi Luật Đất Đai 1987 Ra Đời
- Tình Hình Tranh Chấp, Khiếu Nại, Tố Cáo Liên Quan Đến Đất Đai
- Thẩm Quyền Giải Quyết Tranh Chấp Đất Đai Của Ubnd
- Đánh Giá Tình Hình Giải Quyết Tranh Chấp Đất Đai Của Ubnd
- Tình Hình Giải Quyết Tranh Chấp Đất Đai Tại Tòa Án Nhân Dân
Xem toàn bộ 127 trang tài liệu này.
Trên cơ sở các quy định của pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai bằng biện pháp hòa giải, trong những năm qua, công tác hòa giải các tranh chấp đất đai ở các địa phương trong cả nước nói chung và Thủ đô Hà Nội nói riêng đã bước đầu đạt được những kết quả đáng khích lệ.
Trong những năm gần đây tình hình mâu thuẫn, tranh chấp về đất đai, nhà ở trong nội bộ nhân dân ở Hà Nội có chiều hướng gia tăng. Chủ yếu là các tranh chấp về quyền sử dụng đất; tranh chấp do lấn chiếm đất đai; tranh chấp lối đi chung giữa các hộ liền kề, tranh chấp quyền thừa kế nhà đất giữa các thành viên trong một gia đình tranh chấp phát sinh do xây dựng, cơi nới trái phép đã ảnh hưởng đến các hộ liền kề, ở ngoại thành thường xảy ra tranh chấp đòi lại đất mà Nhà nước đã quản lý và giao cho người khác sử dụng; cha, mẹ đòi lại đất đã tặng cho con rể (dâu), khi vợ chồng ly hôn. Tranh chấp đất đai, nhà ở là loại tranh chấp phức tạp và khó giải quyết nhất. Trên thực tế nếu không kịp thời giải quyết sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của người dân, đánh mất tình cảm gia đình, láng giềng, gây mất trật tự an ninh chung nhiều trường hợp từ dân sự chuyển thành hình sự. Với tấm lòng nhân ái, tinh thần trách nhiệm cao, các hòa giải viên đã không quản ngại khó khăn, vất vả, ngày đêm kịp thời hòa giải "thấu tình đạt lý" đối với các tranh chấp đất đai trong nội bộ nhân dân ở cơ sở
Kết quả trong 3 năm (2000 - 2002) [47], tỷ lệ hòa giải thành các tranh chấp về đất đai, nhà ở trên địa bàn thành phố đạt gần 75% (6 431 vụ/ 8577vụ). Trong đó những quận, huyện đạt tỷ lệ cao trên 75% là: Huyện Thanh Trì, Từ Liêm, Gia Lâm và các quận: Đống Đa, Thanh Xuân, Cầu Giấy…
Hòa giải thành | Tổng số | Tỷ lệ | |
1. Hoàn Kiếm | 367 | 402 | 91% |
2. Sóc Sơn | 440 | 653 | 67% |
3. Thanh Trì | 585 | 740 | 79% |
Hòa giải thành | Tổng số | Tỷ lệ | |
4. Từ Liêm | 716 | 935 | 76,5% |
5. Đống Đa | 437 | 533 | 82% |
6. Đông Anh | 50 | 72 | 69,38% |
7. Gia Lâm | 731 | 967 | 75,60% |
8. Thanh Xuân | 767 | 986 | 78% |
9. Tây Hồ | 597 | 781 | 76,5% |
10. Hai Bà Trưng | 978 | 1.441 | 67,9% |
11. Cầu Giấy | 373 | 450 | 83% |
12. Ba Đình | 390 | 617 | 63,5% |
Cộng: | 8.579 | 6.431 | 74,9% |
* Nguyên nhân của thành công:
So với những năm trước đây, những năm gần đây công tác hòa giải các mâu thuẫn, xích mích trong nội bộ nhân dân nói chung và hòa giải các tranh chấp đất đai nói riêng đã đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ, biểu hiện cụ thể là tỷ lệ hòa giải thành công của năm sau cao hơn năm trước. Đó là do sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với công tác này. Năm 1998, Pháp lệnh về tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở được ban hành tạo cơ sở pháp lý để công tác hòa giải đạt kết quả. Trên cơ sở đó Hà Nội là một trong những địa phương đã tích cực củng cố, kiện toàn các tổ hòa giải. Hiện nay, trên địa bàn thành phố Hà Nội có 2.617 tổ hòa giải với 13.208 hòa giải viên, thành phần tham gia gồm: Hội phụ nữ, Đoàn thanh niên, Mặt trận Tổ quốc, Cựu chiến binh, công an v.v...); cơ quan tư pháp địa phương thường xuyên tổ chức bồi dưỡng kiến thức pháp luật, kỹ năng nghiệp vụ cho hòa giải viên; cung cấp các văn bản pháp
luật và các tài liệu có liên quan để các hòa giải viên thực hiện tốt nhiệm vụ được giao. Tổ chức hội thi "những người làm công tác hòa giải giỏi "để các hòa giải viên có dịp trao đổi, học hỏi kinh nghiệm...
* Những khó khăn, vướng mắc khi giải quyết các tranh chấp đất đai bằng biện pháp hòa giải:
Bên cạnh những mặt thuận lợi đã nêu, hòa giải các tranh chấp đất đai ở cơ sở trên địa bàn thành phố Hà Nội hiện nay còn có những khó khăn, vướng mắc sau:
- Các vụ tranh chấp về nhà, đất mà các tổ hòa giải ở cơ sở, UBND phường, xã, thị trấn hòa giải thành là các vụ việc đơn giản, cơ sở pháp lý để giải quyết tương đối rò ràng (quy định trong các văn bản pháp luật về đất đai, có lưu giữ trong hồ sơ địa chính ở địa phương) hoặc các bên là những người "biết điều", có thiện chí hòa giải.
- Đối với các vụ phức tạp, thiếu cơ sở pháp lý để giải quyết (hồ sơ địa chính thiếu hoặc không có hoặc thay đổi; việc sao lục giấy tờ về nhà đất tại các cơ quan có thẩm quyền gặp khó khăn v.v...) thì tổ hòa giải ở cơ sở cũng như UBND cơ sở khó hòa giải được.
- Nhiều cán bộ làm công tác hòa giải chưa đủ trình độ để hòa giải các tranh chấp trong lĩnh vực này.
- Việc theo dòi kết quả sau hòa giải không được duy trì nên sau một thời gian hai bên lại tiếp tục tranh chấp.
- Do đất đai ngày một "có giá" đặc biệt ở những vùng từ " xã" chuyển thành "phường" có tốc độ đô thị hóa nhanh thì người dân vì lợi ích kinh tế đã không chấp nhận biện pháp hòa giải.
- Chế độ dành cho cán bộ hòa giải mặc dù được quan tâm những vẫn quá hạn hẹp nên nhiều cán bộ hòa giải nản chí đối với các vụ việc phức tạp phải "theo đuổi" để hòa giải nhiều ngày.
2.3. Tình hình giải quyết tranh chấp đất đai của ủy ban nhân dân