Nợ Xấu Tại Các Ngân Hàng Thương Mại‌


(ii) Cho vay hoàn trả một lần: Là loại cho vay mà khách hàng chỉ phải hoàn trả gốc và lãi vay một lần khi đến hạn, áp dụng cho những khoản vay nhỏ và có thời hạn ngắn.

(iii) Cho vay hoàn trả theo yêu cầu: Là loại cho vay mà khách hàng có thể hoàn trả nợ vay bất cứ khi nào, áp dụng cho cho những khoản vay thấu chi, thẻ tín dụng…

1.1.2.7. Căn cứ vào chủ thể vay vốn


(i) Tín dụng doanh nghiệp: Là loại hình tín dụng được cấp cho đối tượng khách hàng là các doanh nghiệp với giá trị khoản vay thường là rất lớn, do vậy đây còn gọi là tín dụng bán buôn.

(ii) Tín dụng cá nhân, hộ gia đình: Là các khoản tín dụng được cấp cho đối tượng khách hàng là các cá nhân, hộ gia đình với giá trị khoản vay thường là nhỏ nhằm vào mục đích tiêu dùng.

(iii) Tín dụng cho các tổ chức tài chính: Đây là các khoản tín dụng cấp cho các ngân hàng, công ty bảo hiểm, công ty tài chính hoặc các tổ chức tài chính khác. Những khoản đi vay này trở thành nguồn vốn của bên đi vay, nên chúng có thể được dùng để trả nợ hay là cho vay lại.


1.1.3. Vai trò của tín dụng Ngân hàng‌

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 145 trang tài liệu này.


1.1.3.1. Đối với nền kinh tế‌

Giải pháp xử lý nợ xấu cho hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam - 3


(i) Vai trò kinh tế cơ bản của tín dụng ngân hàng là luân chuyển vốn từ những người (cá nhân, hộ gia đình, công ty và chính phủ) có vốn thặng dư (do chi tiêu ít hơn thu nhập) dến những người thiếu hụt (do chi tiêu vượt quá thu nhập). Nhu cầu vay vốn không chỉ đầu tư kinh doanh mà còn để thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng trước mắt bởi vì những người tiết kiệm thường không đồng thời là những người có cơ hội đầu tư sinh lời cao. Như vậy nếu không có ngân hàng, thì việc luân chuyển vốn giữa các chủ thể trong nền kinh tế sẽ ách tắc. Chính vì vậy kênh luân chuyển vốn qua ngân hàng có ý nghĩa rất lớn trong việc thúc đẩy tính hiệu quả của nền kinh tế.


(ii) Tín dụng ngân hàng không chỉ giới hạn trong chức năng truyền thống là chuyển vốn từ nơi thừa vốn đến nơi thiếu vốn mà còn giúp phân bổ có hiệu quả các nguồn lực tài chính trong nền kinh tế. Thông qua tín dụng ngân hàng mà vốn từ những người thiếu các dự án đầu tư hiệu quả được chuyển tới những người có các dự án đầu tư hiệu quả hơn nhưng thiếu vốn. Kết quả là kinh tế tăng trưởng, tạo công ăn việc làm và năng suất lao động cao.

(iii) Thông qua việc đầu tư vốn tín dụng vào những ngành nghề, khu vực kinh tế trọng điểm sẽ thúc đẩy sự phát triển của các ngành nghề đó, hình thành nên cơ cấu hiện đại, hợp lý và hiệu quả.

(iv) Tín dụng ngân hàng góp phần lưu thông tiền tệ, hàng hóa, điều tiết thị trường, kiểm soát giá trị đồng tiền và thúc đẩy quá trình mở rộng giao lưu kinh tế giữa các nước.

(v) Tín dụng ngân hàng mang lại nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước thông qua thuế và lãi từ ủy thác đầu tư vốn của chính phủ.

(vi) Tín dụng ngân hàng là kênh truyền tải vốn tài trợ của nhà nước đến nông nghiệp nông thôn góp phần xóa đói giảm nghèo, ổn định chính trị xã hội.


1.1.3.2. Đối với khách hàng


(i) Tín dụng ngân hàng đáp ứng kịp thời nhu cầu về số lượng và chất lượng vốn cho khách hàng. Với các ưu điểm như an toàn, thuận tiện, nhanh chóng, dễ tiếp cận và có khả năng đáp ứng được nhu cầu vốn lớn, tín dụng ngân hàng thỏa mãn nhu cầu đa dạng của khách hàng.

(ii) Tín dụng ngân hàng giúp nhà đầu tư nắm bắt được những cơ hội kinh doanh, doanh nghiệp có vốn để mở rộng sản xuất, các cá nhân có đủ khả năng tài chính để trang trải cho các khoản chi tiêu nâng cao chất lượng sống.

(iii) Tín dụng ngân hàng ràng buộc trách nhiệm khách hàng phải hoàn trả vốn gốc và lãi trong thời gian nhất định như thỏa thuận. Do đó buộc khách hàng phải nỗ lực, tận dụng hết khả năng của mình để sử dụng vốn vay có hiệu quả, đẩy nhanh quá


trình sản xuất, đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp và đảm bảo nghĩa vụ trả nợ cho ngân hàng.


1.1.3.3. Đối với ngân hàng‌


(i) Tín dụng là hoạt động truyền thống, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tài sản có và mang lại nguồn thu nhập chủ yếu cho ngân hàng (từ 70% - 90%). Mặc dù tỷ trọng hoạt động tín dụng đang có xu hướng giảm, nhưng tín dụng ngân hàng vẫn luôn là nghiệp vụ sử dụng vốn quan trọng nhất đối với mỗi ngân hàng.

(ii) Thông qua hoạt động tín dụng mà ngân hàng đa dạng hóa được danh mục tài sản có, giảm thiểu rủi ro.

(iii) Thông qua hoạt động tín dụng, ngân hàng mở rộng được các loại hình dịch vụ khác như thanh toán, thu hút tiền gửi, kinh doanh ngoại tệ, tư vấn . . .


1.2. NỢ XẤU TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI‌


1.2.1. Khái niệm nợ xấu‌


Nợ xấu (Bad Debt - Non-Performing Loan) là một khoản tiền cho vay mà chủ nợ xác định không thể thu hồi lại được và bị xóa sổ khỏi danh sách các khoản nợ phải thu của chủ nợ. Đối với các ngân hàng, nợ xấu tức là các khoản tiền cho khách hàng vay, thường là các doanh nghiệp, mà không thể thu hồi lại được do doanh nghiệp đó làm ăn thua lỗ hoặc phá sản...Nợ xấu được coi là chi phí khác trực tiếp làm giảm dòng thu nhập của doanh nghiệp cho vay.

Tín dụng là một hoạt động luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro, hoạt động tín dụng còn được xem như một nghiệp vụ QTRR để sinh lợi trong kinh doanh ngân hàng. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng nhưng tựu trung lại rủi ro tín dụng có thể được hiểu là việc ngân hàng không thể thu hồi được toàn bộ gốc và lãi khi khoản vay đến hạn. Và khi một khoản vay không thể thu hồi hay có nguy cơ không thể thu hồi nợ gốc và lãi thì người ta gọi đây là một khoản nợ xấu.


Theo IMF, “về cơ bản một khoản nợ được coi là nợ xấu khi quá hạn trả lãi và/hoặc gốc trên 90 ngày; hoặc các khoản lãi chưa trả từ 90 ngày trở lên đã được nhập gốc, tái cấp vốn hoặc chậm trả theo thoả thuận; hoặc các khoản phải thanh toán đã quá hạn dưới 90 ngày nhưng có lý do chắc chắn để nghi ngờ về khả năng khoản vay sẽ được thanh toán đầy đủ” (A non-performing loan is any loan in which: interest and principal payments are more than 90 days overdue; or more than 90 days' worth of interest has been refinanced, capitalized, or delayed by agreement; or payments are less than 90 days overdue but are no longer anticipated.)

Như vậy, nợ xấu về cơ bản được xác định dựa trên 2 yếu tố: (i) quá hạn trên 90 ngày và (ii) khả năng trả nợ nghi ngờ. Đây được coi là định nghĩa theo chuẩn mực kế toán quốc tế (International Accounting Standards - IAS) đang được áp dụng phổ biến hiện hành trên thế giới.

Theo chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế (International Financial Reporting sandards - IFRS) và IAS 39 vừa được Uỷ ban Chuẩn mực Kế toán quốc tế cho ra đời và được khuyến cáo áp dụng ở một số nước phát triển vào đầu năm 2005. Về cơ bản IAS 39 chỉ chú trọng đến khả năng hoàn trả của khoản vay bất luận thời gian quá hạn chưa tới 90 ngày hoặc chưa quá hạn. Phương pháp để đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng thường là phương pháp phân tích dòng tiền tương lai hoặc xếp hạng khoản vay (khách hàng). Hệ thống này được coi là chính xác về mặt lý thuyết, nhưng việc áp dụng thực tế gặp nhiều khó khăn. Vì vậy, hệ thống này đang được Uỷ ban Chuẩn mực Kế toán quốc tế chỉnh sửa lại.


1.2.2. Các dấu hiệu của những khoản nợ xấu‌


Thực tế cho thấy việc thất bại trong hoạt động kinh doanh thường được biểu hiện qua một vài dấu hiệu báo động. Có những dấu hiệu mờ nhạt, có những dấu hiệu biểu hiện rất rò ràng. Ngân hàng cần có cách nhận ra những dấu hiệu ban đầu của khoản vay có vấn đề và có những hành động cần thiết để ngăn ngừa và xử lý. Các dấu hiệu của khoản tín dụng có vấn đề có thể được chia thành các nhóm sau:


1.2.2.1. Dấu hiệu từ hoạt động SXKD của khách hàng


Trong quá trình hạch toán của khách hàng, xu hướng của các tài khoản của khách hàng qua một quá trình để cung cấp cho ngân hàng một số dấu hiệu quan trọng gồm: Phát hành séc qua bảo chứng hoặc bị từ chối; Khó khăn trong thanh toán lương; Sự giảm sút số dư tài khoản tiền gửi; Tăng mức sử dụng bình quân trong các tài khoản; Thường xuyên yêu cầu hỗ trợ nguồn vốn lưu động có khả năng thanh toán nợ khi đến hạn; Không có khả năng thực hiện các hoạt động cắt giảm chi phí; Gia tăng các khoản nợ thương mại hoặc không có khả năng thanh toán nợ khi đến hạn.

Các hoạt động cho vay như: Mức độ vay thường xuyên gia tăng; Thanh toán chậm các khoản nợ gốc và lãi; Yêu cầu các khoản vay vượt quá nhu cầu dự kiến…

Phương thức tài chính: Sử dụng nhiều các khoản tài trợ ngắn hạn cho các hoạt động phát triển dài hạn; Chấp nhận sử dụng các nguồn tài trợ đắt nhất (ví dụ: thường xuyên sử dụng nghiệp vụ factoring…); Giảm các khoản phải trả và tăng các khoản phải thu; Các hệ số thanh toán phát triển theo chiều hướng xấu …

Khó khăn trong việc phát triển sản phẩm; Thay đổi trên thị trường: tỷ giá, lãi suất, mất nhà cung ứng hoặc khách hàng lớn, thêm đối thủ cạnh tranh, thay đổi thị hiếu… Những thay đổi từ chính sách của nhà nước như: chính sách thuế, điều kiện thành lập và hoạt động…

Sản phẩm của khách hàng mang tính thời vụ cao; Có biểu hiện cắt giảm các chi phí sửa chữa, thay thế…


1.2.2.2. Dấu hiệu thuộc về quản lý của khách hàng‌


Thay đổi thường xuyên cơ cấu của hệ thống quản trị hoặc ban điều hành. Hệ thống điều hành luôn bất đồng vì mục đích, quản trị, điều hành độc đoán hoặc quá phân tán. Cách thức hoạch định của khách hàng có biểu hiện:

i) Được hoạch định bởi Hội đồng Quản trị (HĐQT) hoặc Giám đốc điều hành ít hay không có kinh nghiệm; Thiếu quan tâm đến lợi ích của cổ đông, chủ nợ; Thuyên chuyển nhân viên diễn ra thường xuyên.


ii) Có các chi phí quản lý bất hợp lí: tập trung quá mức chi phí để gây ấn tượng như thiết bị văn phòng rất hiện đại, phương tiện giao thông đắt tiền, ban giám đốc có cuộc sống xa hoa, lẫn lộn giữa chi phí kinh doanh và chi phí cá nhân.


1.2.2.3. Dấu hiệu từ các thông tin tài chính


Chuẩn bị không đầy đủ số liệu tài chính hoặc chậm trễ, trì hoãn các báo cáo tài chính và qua phân tích cho thấy: Sự gia tăng không cân đối về tỷ lệ nợ thường xuyên; Tăng doanh số nhưng giảm lãi hoặc không có lãi; Các tài khoản hạch toán vốn lưu động không khớp; Lượng hàng hóa tăng nhanh hơn doanh số bán …

Ngoài ra còn có các dấu hiệu phi tài chính khác: Là dấu hiệu mà mắt thường cán bộ tín dụng có thể nhận biết được như: Những vấn đề về đạo đức, thậm chí dáng vẻ nhà kinh doanh cũng biểu hiện những điều đó; Sự xuống cấp trông thấy của nơi kinh doanh; Nơi lưu trữ hàng hóa quá nhiều, hư hỏng, lạc hậu…

1.2.3. Phân loại nợ xấu của NHTM Việt Nam‌


Theo quyết định 493/2005/QĐ-NHNN của NHNN, định nghĩa nợ xấu là các khoản nợ thuộc các nhóm ba (nợ dưới tiêu chuẩn), nợ nhóm bốn (nợ nghi ngờ) và nợ nhóm năm (nợ có khả năng mất vốn), cụ thể:


1.2.3.1. Theo phương pháp “Định lượng”‌


- Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm các khoản nợ được Tổ chức Tín dụng (TCTD) đánh giá là không có khả năng thu hồi nợ gốc và lãi khi đến hạn. Các khoản nợ này được TCTD đánh giá là có khả năng tổn thất một phần nợ gốc và lãi, bao gồm: Các khoản nợ quá hạn từ 90 đến 180 ngày; Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn đã cơ cấu lại; Các khoản nợ khác được phân loại vào nhóm 3 theo quy định tại Khoản 3 và Khoản 4 Điều này.

- Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) bao gồm các khoản nợ được TCTD đánh giá là khả năng tổn thất cao, bao gồm: Các khoản nợ quá hạn từ 181 đến 360 ngày; Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180 ngày theo thời hạn đã cơ cấu


lại; Các khoản nợ khác được phân loại vào nhóm 4 theo quy định tại Khoản 3 và Khoản 4*.

- Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn) bao gồm các khoản nợ được TCTD đánh giá là không còn khả năng thu hồi, mất vốn bao gồm: Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày; Các khoản nợ khoanh chờ Chính phủ xử lý; Các khoản nợ đã cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn trên 180 ngày theo thời hạn đã được cơ cấu lại; Các khoản nợ khác được phân loại vào nhóm 5 theo quy định tại Khoản 3 và Khoản 4*.

* Khoản 3: Trường hợp một khách hàng có nhiều hơn một (01) khoản nợ với TCTD mà có bất kỳ khoản nợ bị chuyển sang nhóm nợ rủi ro cao hơn thì TCTD bắt buộc phải phân loại các khoản nợ còn lại của khách hàng đó vào các nhóm nợ rủi ro cao hơn tương ứng với mức độ rủi ro.

* Khoản 4: Trường hợp các khoản nợ (kể cả các khoản nợ trong hạn và các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ trong hạn theo thời hạn nợ đã cơ cấu lại) mà TCTD có đủ cơ sở để đánh giá là khả năng trả nợ của khách hàng bị suy giảm thì TCTD chủ động tự quyết định phân loại các khoản nợ đó vào các nhóm nợ rủi ro cao hơn tương ứng với mức độ rủi ro.


1.2.3.2. Theo phương pháp “Định tính”‌


Lần đầu tiên phương pháp "định tính" được Quyết Định 493 cho phép áp dụng đối với TCTD đủ điều kiện. Theo phương pháp này, nợ cũng được phân thành năm nhóm tương ứng như năm nhóm nợ theo cách phân loại nợ theo phương pháp định lượng, nhưng không nhất thiết căn cứ vào số ngày quá hạn chưa thanh toán nợ, mà căn cứ trên hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ và chính sách dự phòng rủi ro của TCTD được NHNN chấp thuận. Các nhóm nợ bao gồm:

i) Nhóm 1: Nợ đủ tiêu chuẩn, bao gồm nợ được đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ gốc và lãi đúng hạn;

ii) Nhóm 2: Nợ cần chú ý, bao gồm nợ được đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ gốc và lãi nhưng có dấu hiệu khách hàng suy giảm khả năng trả nợ;


iii) Nhóm 3: Nợ dưới tiêu chuẩn, bao gồm nợ được đánh giá là không có khả năng thu hồi gốc và lãi khi đến hạn;

iv) Nhóm 4: Nợ nghi ngờ, bao gồm nợ được đánh giá là có khả năng tổn thất cao; và

v) Nhóm 5: Nợ có khả năng mất vốn, bao gồm nợ được đánh giá là không còn khả năng thu hồi, mất vốn.

1.2.4. Nguyên nhân phát sinh nợ xấu‌


Một khoản cho vay sẽ trở thành nợ xấu khi bên cho vay không thể thu hồi đúng hạn hay có nguy cơ không thể thu hồi nợ gốc và lãi đúng hạn. Do vậy nguyên nhân phát sinh nợ xấu có thể phát sinh do bởi khả năng trả nợ và/hoặc ý chí trả nợ của người vay; hoặc do Bên cho vay đã không thực hiện đúng từ đầu; hoặc do các nguyên nhân khách quan từ môi trường kinh tế.


1.2.4.1. Nguyên nhân từ phía khách hàng vay vốn‌


Hầu hết các khoản nợ xấu được gây ra bởi quyết định đi vay của khách hàng. Đôi khi khách hàng vay tìm mọi cách chứng minh đầy đủ điều kiện và năng lực vay vốn của mình mà không cần suy nghĩ về tương lai và những khoản họ phải trả phù hợp với thu nhập của họ. Và như vậy, văn hóa tín dụng ở đây là khách hàng muốn được vay các khoản vay lớn không phải vì quyết định tài chính khôn ngoan mà đôi khi họ hành động theo xu hướng, theo người khác. Điều đó có thể dễ dàng dẫn đến các khoản vay nợ xấu.

1.2.4.2. Nguyên nhân từ phía các NHTM‌


(i) Hệ thống quản trị ngân hàng: Ngân hàng cũng đóng vai trò như là một nguyên nhân quan trọng của các khoản nợ xấu. Một ngân hàng được quản trị tốt và được điều hành một cách hiệu quả sẽ phải xây dựng được chính sách tín dụng phù hợp với mục tiêu của mình (điều chỉnh được mức cho vay và các điều kiện cho vay) trong điều kiện thị trường hiện tại để giảm các nguy cơ phát sinh nợ xấu. Các ngân

Xem tất cả 145 trang.

Ngày đăng: 06/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí