Giải pháp tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng ngoại thương Việt Nam - 3

khách hàng sử dụng các dịch vụ của NH như: thẻ, séc... Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của dịch vụ NH, với chất lượng dịch vụ ngày càng được nâng cao, khách hàng ngày càng có xu hướng sử dụng dịch vụ NH. Do vậy, các NHTM có thể huy động được nguồn vốn khá lớn từ loại tiền gửi này với chi phí thấp do lãi suất của khoản tiền gửi này nhìn chung là rất thấp. Để thu hút khách hàng, các NHTM đã đa dạng hoá hình thức tiền gửi này. Một số NH kết hợp tài khoản tiền gửi thanh toán với tài khoản cho vay (thấu chi - chi trội trên số dư có của tài khoản tiền gửi). Một số ngân hàng sử dụng nhiều hình thức biến tướng của tài khoản thanh toán để nâng lãi suất loại tiền gửi này nhằm cạnh tranh với các TCTD khác. Tuy nhiên, một điều đáng lưu ý ở đây là việc sử dụng nguồn tiền này gặp bất lợi do khách hàng có thể rút bất cứ lúc nào. Điều này đặt NHTM trước rủi ro thanh khoản. Để sử dụng nguồn vốn này hiệu quả, NHTM cần nghiên cứu kĩ đặc tính kinh doanh, thu nhập, chi tiêu của khách hàng để có kế hoạch khai thác nguồn vốn này một cách triệt để. Thứ hai, tiền gửi có kì hạn của các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội

khác

Nhiều khoản thu bằng tiền của doanh nghiệp và các tổ chức xã hội sẽ

được chi trả sau một thời gian nhất định. Tiền gửi thanh toán tuy rất thuận tiện cho hoạt động thanh toán song lãi suất lại rất thấp. Để đáp ứng nhu cầu tăng thu cho người gửi tiền, NH đã đưa ra hình thức tiền gửi có kì hạn. Người gửi không được sử dụng các dịch vụ thanh toán của tiền gửi thanh toán để áp dụng cho loại tiền gửi này. Nếu cần chi tiêu, người gửi phải đến NH rút tiền ra và tự mình thực hiện hoạt động thanh toán. Tuy không thuận lợi cho tiêu dùng bằng hình thức tiền gửi thanh toán, nhưng tiền gửi có kì hạn này lại được hưởng mức lãi suất cao hơn. Thời hạn gửi tiền càng lâu thì lãi suất càng cao. Tiền gửi có kì hạn là một nguồn vốn mang tính chất ổn định do khách hàng thông thường chỉ rút tiền khi đến kì hạn. Do đó, các NHTM thường chú trọng các biện pháp kích thích để huy động loại tiền gửi này.

Thứ ba, tiền gửi tiết kiệm của dân cư

Các tầng lớp dân cư đều có các khoản thu nhập tạm thời chưa sử dụng. Chính vì vậy, trong điều kiện có khả năng tiếp cận với NH, họ đều có thể gửi tiết kiệm nhằm mục tiêu bảo toàn và sinh lời đối với các khoản tiết kiệm.

Tiền gửi tiết kiệm được lập ra để thu hút vốn của những người muốn dành một khoản tiền cho những mục tiêu hay cho một nhu cầu về tài chính trong tương lai. Lãi suất áp dụng cho loại tiền này cao hơn nhiều so với tiền gửi giao dịch. Tiền gửi tiết kiệm cũng bao gồm tiền gửi tiết kiệm không kì hạn và tiền gửi tiết kiệm có kì hạn. Với tiết kiệm không kì hạn, người gửi có thể gửi vào và rút ra bất cứ lúc nào tuỳ theo nhu cầu sử dụng của người gửi tiền. Tiền gửi tiết kiệm có kì hạn có lãi suất cao hơn tiền gửi tiết kiệm không kì hạn. Đối với hình thức tiết kiệm có kì hạn, nếu kì hạn gửi càng cao thì lãi suất người gửi được hưởng sẽ càng cao. Nghĩa là, tiết kiệm có kì hạn 24 tháng sẽ có lãi suất cao hơn tiết kiệm có kì hạn 12 tháng và cao hơn lãi suất tiết kiệm kì hạn 6 tháng. Trong thời hạn tiết kiệm, nếu người gửi rút tiền trước hạn thì sẽ bị phạt lãi. Các NHTM đang ngày càng mở rộng mạng lưới huy động, đưa ra các hình thức huy động đa năng và lãi suất cạnh tranh hấp dẫn...

Thứ tư, tiền gửi của các tổ chức tín dụng khác

Nhằm mục đích nhờ thanh toán hộ và một số mục đích khác, NHTM này có thể gửi tiền tại NHTM khác. Trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, một yêu cầu đặt ra phải có hệ thống ngân hàng phát triển mạnh mẽ và liên kết chặt chẽ với nhau. Theo đó, tuy nguồn vốn này không lớn nhưng quy mô nguồn vốn này có xu hướng tăng do có sự hình thành và phát triển của hệ thống liên ngân hàng.

Vay vốn

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 118 trang tài liệu này.

Khi cần phải đáp ứng thanh toán, chi trả cho khách hàng hay nói rộng hơn là để phục vụ cho hoạt động kinh doanh, mà vốn tiền gửi đã được sử dụng hết thì các NHTM có thể đi vay vốn. Các NHTM huy động vốn vay từ

NHNN, từ các NHTM khác, hoặc vay trên thị trường tiền tệ. Vốn vay chỉ chiếm một tỷ trọng có thể chấp nhận được trong cơ cấu nguồn vốn, nhưng nó rất cần thiết và có vị trí quan trọng để đảm bảo cho ngân hàng hoạt động kinh doanh một cách bình thường.

Giải pháp tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng ngoại thương Việt Nam - 3

2.2.2.1. Vay Ngân hàng Nhà nước

Vay từ NHNN được gọi là tiền vay chiết khấu hay “ tiền ứng trước ”. Trong trường hợp thiếu hụt dự trữ, NHTM thường vay vốn từ NHNN. Đây là khoản vay nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách trong chi trả. NHTM dù có hoạt động hiệu quả đến đâu cũng không hoàn toàn tránh được những lúc thiếu khả năng chi trả. Trong trường hợp không huy động được vốn từ các nguồn khác, NHNN sẽ là người cứu cánh cuối cùng của NHTM. Bởi thường vào những thời điểm NH thiếu vốn thì các NH khác và thị trường cũng đang thiếu vốn. Hình thức vay vốn NHNN:

- Vay vốn ngắn hạn: là hình thức mà các NHTM xin vay vốn bổ sung vốn ngắn hạn của mình. Trong hình thức vay này, các NHTM chỉ được vay khi còn hạn mức tín dụng hoặc trong hạn mức tín dụng mà NH đã thoả thuận.

- Vay tái chiết khấu: Đây là hình thức cho vay chủ yếu của NHNN. Các NHTM vay trên cơ sở chứng từ có giá. Các chứng từ này phải đảm bảo tính hợp lệ, hợp pháp và bảo đảm an toàn. Các thương phiếu đã được NHTM chiết khấu sẽ trở thành tài sản của họ. Khi cần tiền, NH mang những thương phiếu này lên tái chiết khấu tại NHNN. Đến thời hạn trả nợ, NHTM sẽ nhận lại thương phiếu và trả một khoản bằng giá trị của chúng. Thông thường, NHNN chỉ tái chiết khấu cho những thương phiếu có chất lượng và phù hợp với mục tiêu của NHNN trong từng thời kì. Có thể nói nguồn vốn vay NHNN là rất quan trọng vì nó giúp cho NH vượt qua các khó khăn về thanh khoản, đảm bảo cho TCTD hoạt động bình thường.

2.2.2.2. Vay các TCTD khác

Đây là nguồn các NH vay mượn lẫn nhau và vay của các TCTD khác trên thị trường liên NH. Hoạt động của thị trường liên NH đã hỗ trợ tích cực cho hoạt động của các NH, bổ sung kịp thời nhu cầu vốn thông qua việc điều hoà nguồn vốn từ nơi thừa vốn đến nơi thiếu vốn. Các NH đang thiếu hụt dự trữ có thể vay mượn tức thời để đảm bảo thanh khoản. Ngược lại, các NH đang có dự trữ vượt yêu cầu do kết dư gia tăng bất ngờ về các khoản tiền huy động hoặc giảm cho vay sẽ sẵn lòng cho các NH khác vay để tìm kiếm lãi suất cao hơn. Nguồn vay mượn từ các NH khác là để đáp ứng nhu cầu dự trữ và chi trả cấp bách; trong nhiều trường hợp, nó bổ sung và thay thế cho nguồn vốn vay từ NHNN.

2.2.2.3. Vay trên thị trường vốn

Các NHTM có thể vay trực tiếp trên thị trường thông qua việc phát hành các giấy tờ có giá. Những NH có uy tín hoặc trả lãi suất cao sẽ vay mượn được nhiều hơn. Các NH nhỏ thường khó vay mượn trực tiếp bằng cách này; họ thường phải vay thông qua các NH đại lý hoặc được bảo lãnh của tổ chức tài chính có uy tín trên thị trường. Khả năng vay mượn còn phụ thuộc vào sự phát triển của thị trường tài chính. Mỗi NH cần nghiên cứu kĩ thị trường để quyết định quy mô, mệnh giá, lãi suất và thời hạn vay mượn thích hợp. Các giấy tờ có giá mà NHTM có thể phát hành là:

- Kỳ phiếu: Kỳ phiếu NH là giấy nhận nợ ngắn hạn (dưới 12 tháng) do NH phát hành nhằm huy động vốn trong dân cư. Việc phát hành loại giấy nợ ngắn hạn này chủ yếu để phục vụ cho những kế hoạch kinh doanh nhất định của NH như một dự án, một chương trình kinh tế... Là công cụ nợ ngắn hạn, kỳ phiếu có tính lỏng rất cao, dễ dàng chuyển sang tiền mặt hoặc các hình thức khác. Mệnh giá, loại tiền và phương thức trả lãi đa dạng của kỳ phiếu đã đáp ứng khá đầy đủ các nhu cầu gửi vốn khác nhau của người mua. Do tính chủ động, lãi suất của kỳ phiếu thường được ấn định một cách hấp dẫn tuỳ theo mức độ cần thiết về vốn của NH. Chính nhờ những ưu điểm này mà việc

huy động vốn bằng việc phát hành kỳ phiếu là một hình thức khá dễ dàng và linh hoạt. NH có thể huy động lượng vốn cần thiết trong khoảng thời gian tối ưu nhất nếu đưa ra mệnh giá và lãi suất hợp lý cho kỳ phiếu phát hành.

- Trái phiếu: Trái phiếu là một giấy nợ dài hạn của NH với cam kết thanh toán tiền gốc vào ngày đáo hạn và thanh toán tiền lãi vào những thời gian xác định với một mức lãi suất xác định tương ứng. Trong điều kiện cạnh tranh trên thị trường vốn ngày càng cao, các NHTM đang ngày càng đa dạng hoá các loại trái phiếu nhằm lôi kéo khách hàng để thực hiện thành công kế hoạch huy động vốn của mình. Trái phiếu được phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau. Theo tính chất sở hữu và chuyển nhượng có trái phiếu vô danh và trái phiếu đích danh; theo phương thức trả lãi có trái phiếu trả lãi trước, trái phiếu trả lãi sau và trái phiếu coupon. Mệnh giá, ngày đáo hạn, lãi suất và phương thức trả lãi được ghi rõ trên bề mặt trái phiếu. Các NHTM cũng có thể phát hành trái phiếu có lãi suất thả nổi để tăng tính hấp dẫn của trái phiếu. Trái phiếu tuy không phải là công cụ nợ có tính thanh khoản cao nhưng chúng được mua bán trên thị trường cấp 2.

Lãi suất của trái phiếu thường cao hơn lãi suất của các công cụ nợ khác và tỷ lệ với kỳ hạn của trái phiếu do trái phiếu là công cụ nợ dài hạn. Mục đích của việc phát hành trái phiếu là huy động vốn trung và dài hạn (kỳ hạn lớn hơn 1 năm) phục vụ cho kế hoạch phát triển có quy mô lớn và dài hạn của ngân hàng.

- Chứng chỉ tiền gửi (CDs): Đây là một loại giấy xác nhận một khoản tiền được gửi ở một TCTD. CDs thường có kỳ hạn hơn 12 tháng và trả lãi 6 tháng 1 lần. CDs gồm 2 loại: có thể chuyển nhượng và không thể chuyển nhượng. CDs tương đương như một loại tiền gửi nhưng nó chỉ có thể đổi thành tiền khi đáo hạn. Chính vì thế, nó tạo NH một nguồn vốn khá ổn định, chủ động trong việc kinh doanh hơn. Lãi suất của chứng chỉ tiền gửi có thể là cố định hoặc thả nổi dựa trên lãi suất của tín phiếu kho bạc, lãi suất thị trường

liên ngân hàng London hoặc lãi suất chiết khấu. Các NH phát hành chứng chỉ tiền gửi nhằm đáp ứng nhu cầu vốn của mình để tài trợ cho các khoản cho vay mới của khách hàng. Đây là một công cụ huy động vốn tương đối mới nhưng lại tỏ ra rất hiệu quả, đặc biệt là tại nơi có thị trường tiền tệ phát triển. Nó cũng là một công cụ tài chính có tính lỏng tương đối cao, khá hấp dẫn đối với các nhà đầu tư.

Gia tăng vốn chủ sở hữu

Tuy không chiếm một tỷ trọng lớn trong nguồn vốn của NHTM song vốn chủ sở hữu đóng một vai trò hết sức quan trọng. Vốn chủ sở hữu đóng vai trò là một tấm đệm giúp chống lại rủi ro phá sản, trang trải những thua lỗ về tài chính đưa ngân hàng trở lại hoạt động bình thường. Vốn chủ sở hữu là một bằng chứng về tính an toàn và sức mạnh của NH, tạo niềm tin trong dân chúng, là sự đảm bảo đối với các chủ nợ, và là điều kiện để mở rộng quy mô tín dụng, phát triển cơ sở hạ tầng.

Cùng với sự mở rộng hoạt động huy động vốn và cho vay, các NHTM cũng phải gia tăng vốn chủ sở hữu để đảm bảo tỷ lệ vốn an toàn tối thiểu. Hiện nay, hầu hết các ngân hàng quốc doanh ở Việt Nam đều chưa đảm bảo được yêu cầu này.

Nguồn hình thành và nghiệp vụ hình thành vốn chủ sở hữu rất đa dạng tuỳ theo tính chất sở hữu, năng lực tài chính của NHTM và sự phát triển của thị trường. Sau đây ta sẽ xem xét các nguồn vốn đó:

Nguồn hình thành ban đầu

Đây là nguồn vốn có khi thành lập NHTM. Tuỳ theo hình thức của mỗi NH mà nguồn gốc hình thành vốn ban đầu khác nhau. Nếu là các NHTM quốc doanh thì vốn ban đầu sẽ do Nhà nước cấp. Nguồn vốn này sẽ được huy động từ các cổ đông thông qua việc bán cổ phần hoặc cổ phiếu nếu là NHTM cổ phần; hoặc do các bên liên doanh liên kết đóng góp nếu là NH liên doanh

Nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động

Trong quá trình hoạt động, các NHTM gia tăng thêm vốn chủ sở hữu theo nhiều phương thức khác nhau tuỳ thuộc vào từng điều kiện cụ thể. Các NHTM có thể gia tăng thêm vốn bằng cách huy động từ các nguồn sau:

- Nguồn từ lợi nhuận giữ lại: Quá trình mở rộng hoạt động kinh doanh là tất yếu khách quan của bất kì doanh nghiệp nào cũng như các NHTM nếu họ muốn tồn tại và phát triển trên thị trường. Nhu cầu này buộc các NHTM phải luôn nỗ lực tìm ra các giải pháp để huy động được nguồn vốn tối ưu nhằm phát triển hệ thống chi nhánh, nâng cao trang thiết bị, đa dạng hóa các dịch vụMột trong những hình thức huy động hiệu quả đó là việc chủ NH gia tăng vốn chủ bằng cách chuyển một phần thu nhập ròng thành vốn đầu tư trong điều kiện thu nhập ròng lớn hơn không. Mặc dù lợi nhuận để lại không phải là cho không (chi phí của lợi nhuận để lại sẽ bao gồm cả giá trị cao hơn của số cổ tức được trả bằng tiền mặt hôm nay so với số cổ tức sẽ nhận được trong những năm sắp tới và giá cổ phiếu có thể sẽ thấp hơn do mức chi trả lợi nhuận bằng tiền mặt bị giảm đi), nhưng đó vẫn là nguồn vốn có chi phí thấp hơn so với chi phí phát hành cổ phiếu phổ thông mới. Tỷ lệ tích luỹ tuỳ thuộc vào từng điều kiện riêng của mỗi NH.

- Bổ sung thêm vốn bằng việc phát hành thêm cổ phần, góp thêm, cấp thêm: Để tăng thêm vốn chủ sở hữu, NHTM được quyền phát hành cổ phiếu ra công chúng lần đầu hoặc phát hành cổ phiếu bổ sung đối với các NH đã phát hành cổ phiếu ra công chúng. Bên cạnh đó, nếu là NH quốc doanh, họ còn có thể gia tăng vốn chủ bằng việc xin Nhà nước cấp thêm vốn. Đặc điểm của hình thức huy động này là không thường xuyên, song giúp cho NHTM có được lượng vốn sở hữu lớn vào lúc cần thiết. Đây là hình thức huy động vốn để thực hiện các mục tiêu mở rộng quy mô hoạt động của NH, đổi mới trang thiết bị hoặc đáp ứng nhu cầu gia tăng vốn chủ của NHNN.

Huy động từ các nguồn vốn khác

Cùng với sự phát triển của các mối quan hệ đa phương, sự phụ thuộc lẫn nhau của hệ thống kinh tế thế giới, sự hình thành của các công ty đa quốc gia, nhu cầu về các dịch vụ ký thác ngày càng gia tăng đã thúc đẩy sự phát triển dịch vụ uỷ thác tại các NHTM. NHTM thực hiện các dịch vụ uỷ thác như uỷ thác cho vay, uỷ thác đầu tư, uỷ thác giải ngâncho các cá nhân, tổ chức. Các hoạt động này tạo nên nguồn uỷ thác tại NH. Ngoài việc tạo lợi nhuận từ thu phí dịch vụ, hoạt động này cũng tạo nên nguồn vốn ngắn hạn cho ngân hàng nhờ sự chênh lệch giữa thời gian thu hộ và chi hộ.

NHTM cũng có thể huy động vốn thông qua việc bán lại các khoản cho vay. Khi NH có được các khoản cho vay với lãi suất lớn hơn, NH có thể bán lại các khoản nợ cũ có lãi suất thấp hơn để có vốn cho vay khoản vay mới. Nghiệp vụ này cho phép NH loại bỏ các khoản vay có lãi suất thấp ra khỏi danh mục, tạo chỗ cho các tài khoản có lãi suất cao hơn khi lãi suất thị trường tăng. Việc bán các khoản tín dụng và thay thế chúng bằng tài sản có tính thanh khoản cao hơn như chứng khoán chính phủ có thể làm tăng khả năng thanh khoản của NH, đáp ứng tốt hơn nhu cầu rút tiền gửi và chi trả tiền mặt. Hơn nữa, việc bán các khoản cho vay có thể loại bỏ được rủi ro tín dụng lẫn rủi ro lãi suất và NH cũng có thể tạo ra thu nhập ngay lập tức thay vì chờ đợi các khoản vay đến hạn thanh toán.

Như vậy bán các khoản cho vay là một hình thức huy động vốn với chi phí vốn rẻ, lại tăng cường đa dạng hoá đầu tư từ đó hạn chế rủi ro cho NH. Nghiệp vụ này khá phổ biến ở những nước phát triển, nhưng tại Việt Nam hoạt động này còn mới mẻ. Bởi đó là nghiệp vụ tương đối rủi ro và để phát triển nó còn đòi hỏi những điều kiện phát triển nhất của thị trường.

Trên đây là một số hình thức huy động vốn khá phổ biến mà các NHTM đang áp dụng để gia tăng vốn cho hoạt động kinh doanh của mình.

Xem toàn bộ nội dung bài viết ᛨ

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 06/04/2024