Tiêu Chí Cơ Bản Đánh Giá Năng Lực Cạnh Tranh Của Ngân Hàng Thương Mại

Như vậy, có thể hiểu năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp chính là mức độ hấp dẫn của nó đối với khách hàng. Hay năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là thực lực và lợi thế mà doanh nghiệp có thể huy động để duy trì và cải thiện vị trí của nó so với các đối thủ cạnh tranh trên thị trường một cách lâu dài nhằm thu được lợi ích ngày càng cao cho doanh nghiệp của mình. Trong cuộc cạnh tranh, các đối thủ không nhất thiết phải triệt tiêu lẫn nhau.

1.1.2. Khái niệm về năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại

1.1.2.1 Khái niệm ngân hàng


Điều 4, Luật các tổ chức tín dụng số: 47/2010/QH12 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 16 tháng 6 năm 2010 nêu rõ: “Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng có thể được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng theo quy định của Luật này. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng bao gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác xã”.

Luật các tổ chức tín dụng nêu rõ: “Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán".

1.1.2.2 Những đặc điểm chung của ngân hàng

- Xét về bản chất:

Ngân hàng là một doanh nghiệp đặc biệt trên thị trường. Là doanh nghiệp vì ngân hàng hoạt động giống như các doanh nghiệp khác, có vốn riêng, mua vào, bán ra, có chi phí và thu nhập, có nộp thuế, có thể lãi hoặc lỗ, có thể giàu lên hoặc phá sản,…là doanh nghiệp đặc biệt vì nó không kinh doanh hàng hoá và dịch vụ thông thường các doanh nghiệp công, nông thương nghiệp, vận tải, dịch vụ, du lịch, mà nó chuyên kinh doanh các hàng hoá đặc biệt, tiền tệ, vàng bạc, chứng khoán, làm dịch vụ về tiền tệ, kim khí quý, đá quý, chứng khoán.

- Xét về chức năng:

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 151 trang tài liệu này.

Theo Luật các tổ chức tín dụng ở Việt Nam (Luật số 47/2010/QH12, chương IV, Mục 2), chức năng hoạt động của các ngân hàng thương mại:

- Nhận tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm và các loại tiền gửi khác.

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đông Nam Á - Chi nhánh Vũng Tàu - 3

- Phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu để huy động vốn trong nước và nước ngoài.

- Cấp tín dụng dưới các hình thức sau đây: Cho vay, Chiết khấu, tái chiết khấu công cụ chuyển nhượng và giấy tờ có giá khác, Bảo lãnh ngân hàng, Phát hành thẻ tín dụng, Bao thanh toán trong nước; bao thanh toán quốc tế đối với các ngân hàng được phép thực hiện thanh toán quốc tế, Các hình thức cấp tín dụng khác sau khi được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận.

- Mở tài khoản thanh toán cho khách hàng.

- Cung ứng các phương tiện thanh toán.

- Cung ứng các dịch vụ thanh toán sau đây: Thực hiện dịch vụ thanh toán trong nước bao gồm séc, lệnh chi, ủy nhiệm chi, nhờ thu, ủy nhiệm thu, thư tín dụng, thẻ ngân hàng, dịch vụ thu hộ và chi hộ; Thực hiện dịch vụ thanh toán quốc tế và các dịch vụ thanh toán khác sau khi được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận.

1.1.2.3 Đặc điểm cạnh tranh của ngân hàng thương mại

Đối tượng kinh doanh của ngân hàng chủ yếu là các dịch vụ tài chính, liên quan đến tiền, các hoạt động mang tính hệ thống và liên kết khá chặt chẽ nên cạnh tranh trong hoạt động ngân hàng có một số điểm khác biệt so với cạnh tranh trong lĩnh vực khác. Sự khác biệt đó là:

- Cạnh tranh trong điều kiện chịu sự chi phối mạnh mẽ của chính sách tài chính, tiền tệ của Nhà nước. Cạnh tranh dưới tác động của các biến động kinh tế vĩ mô như lạm phát, lãi suất, tăng trưởng kinh tế trong và ngoài nước.

- Cạnh tranh trong lĩnh vực tài chính ngân hàng không bắt buộc phải triệt hạ đối thủ, không phải là một cuộc chiến một mất một còn mà ngược lại ngân hàng chỉ có thể phát triển trong điều kiện hệ thống ngân hàng và các tổ chức tài chính cùng phát triển lành mạnh và ổn định. Một tổ chức ngân hàng bị phá sản có thể ảnh hưởng rất xấu mang tính lan truyền sang các ngân hàng khác, gây tai họa cho nền kinh tế của một nước, thậm chí cho cả một khu vực.

- Ngân hàng vừa cạnh tranh vừa mang tính hợp tác biểu hiện rõ nhất ở sản phẩm dịch vụ thanh toán, ATM,… thì một ngân hàng chỉ thực hiện tốt khi liên kết, hợp tác

với ngân hàng khác. Như vậy, cho dù cạnh tranh lẫn nhau để đạt được tốc độ tăng trưởng cao hơn, thị phần lớn hơn,… nhưng các ngân hàng vẫn phải hợp tác với nhau.

- Cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng không chỉ là động lực để bản thân các ngân hàng phát triển mà còn tạo điều kiện để các doanh nghiệp trong nền kinh tế phát triển, cạnh tranh ngân hàng sẽ nâng cao chất lượng sản phẩm, đáp ứng nhu cầu của khách hàng nhanh chóng, cạnh tranh trong lãi suất giúp doanh nghiệp tiếp cận được nguồn vốn với chi phí lãi vay thấp hơn.

- Cạnh tranh trong khu vực ngân hàng được thể hiện trong việc cung cấp các dịch vụ ngân hàng về giá cả, chất lượng và sự tiện dụng cho các khách hàng.

- Cạnh tranh của từng ngân hàng: thể hiện việc điều chỉnh trước những thay đổi của điều kiện thị trường để có thể duy trì được thị phần, tăng hoạt động kinh doanh theo sự phát triển của thị trường, đảm bảo mức lợi nhuận gia tăng theo thời gian.

1.1.2.4 Năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại

Ngân hàng thương mại là doanh nghiệp, nhưng hoạt động ngân hàng là một loại hình kinh doanh đặc biệt, đó là kinh doanh tiền tệ và các dịch vụ tài chính có liên quan. Vì vậy, nếu dựa trên sự phân chia cấp độ về năng lực cạnh tranh của WEF, thì năng lực cạnh tranh của các ngân hàng được xét trên cấp độ năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp được coi là có năng lực cạnh tranh khi nó có khả năng chiếm lĩnh thị trường, thu hút được nhiều khách hàng đến với mình bằng việc cung cấp các sản phẩm, dịch vụ có chất lượng tốt, tiện ích, tạo được sự hài lòng cho khách hàng, tạo được uy tín, danh tiếng trên thị trường, đồng thời thu được lợi nhuận đủ đảm bảo cho doanh nghiệp phát triển bền vững.

Từ các quan niệm trên có thể nhận thấy, có nhiều cách tiếp cận khác nhau về năng lực cạnh tranh, song các quan niệm này đều liên quan đến hai khía cạnh: chiếm lĩnh thị trường và thu lợi nhuận. Đối với ngành ngân hàng cũng vậy, các ngân hàng phải tìm mọi biện pháp để cung cấp các dịch vụ có chất lượng cao với nhiều lợi ích cho khách hàng, cùng với sự tiện lợi, nhanh, tính chính xác, độ tin cậy trong các giao dịch ngân hàng với mức giá dịch vụ thấp nhất, đáp ứng được về không gian, thời gian để thu hút khách hàng, mở rộng thị phần trường.

Đối với NHTM thì do các sản phẩm của Ngân hàng mang tính đặc thù (kinh doanh lọai hàng hóa đặc biệt là tiền tệ) nên năng lực cạnh tranh cũng mang tính đặc thù. Tuy

18

nhiên, NHTM cũng là một doanh nghiệp, cũng phải xem xét đến khả năng tối đa hóa lợi nhuận. Do đó có thể định nghĩa: “Năng lực cạnh tranh của NHTM là khả năng, huy động, quản lý và sử dụng các nguồn lực có giới hạn nhằm mục đích đa dạng và nâng cao chất lượng, tiện ích các dịch vụ tài chính Ngân hàng, từ đó đảm bảo cho việc duy trì lợi nhuận và thị phần”.

1.2. Tiêu chí cơ bản đánh giá năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại

Để đánh giá năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại một cách chính xác nhất thì phải sử dụng một hệ thống các tiêu chí đánh giá. Trong luận văn này tác giả xin đưa ra một số chỉ tiêu cơ bản nhất.

1.2.1. Năng lực tài chính

Năng lực tài chính của ngân hàng thương mại là năng lực cốt lõi, thể hiện qua nhiều tiêu chí nhưng chủ yếu tập trung vào: vốn, khả năng thanh toán, khả năng sinh lời của vốn đầu tư, mức độ rủi ro.

1.2.1.1. Vốn tự có


Về mặt lý thuyết, vốn điều lệ và vốn tự có đóng vai trò rất quan trọng trong hoạt động của các ngân hàng. Vốn điều lệ cao, ngân hàng tạo được uy tín trên thị trường, lòng tin nơi công chúng. Vốn tự có thấp đồng nghĩa với sức mạnh tài chính yếu và khả năng chống đỡ rủi ro trong kinh doanh kém. Theo quy định số: 13/2010/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước ngày ngày 20 tháng 05 năm 2010 về việc Quy định các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng thì vốn tự có của các ngân hàng thương mại phải đạt tối thiểu 9% trên tổng tài sản có của ngân hàng đó. Đó là điều kiện đảm bảo an toàn cho hoạt động kinh doanh của các ngân hàng.

1.2.1.2. Qui mô và khả năng huy động vốn

Khả năng huy động vốn là một trong những chỉ tiêu đánh giá tình hình hoạt động kinh doanh của các ngân hàng. Một mặt, nó phụ thuộc vào nguồn vốn tự có của các ngân hàng. Mặt khác, khả năng huy động vốn còn thể hiện tính hiệu quả, năng động và uy tín của chính ngân hàng đó trên thị trường. Khả năng huy động vốn tốt đồng nghĩa ngân hàng đó đã sử dụng các sản phẩm, dịch vụ, các công cụ huy động vốn có hiệu quả, thu hút được khách hàng. Khi một ngân hàng có khả năng huy động vốn tốt cũng có nghĩa là ngân hàng đó đang tạo cho mình được tiềm lực tài chính tốt, vững mạnh.

1.2.1.3. Khả năng thanh khoản của ngân hàng

Theo chuẩn mực quốc tế, khả năng thanh toán của ngân hàng thể hiện qua công thức: 19


Trong đó, tài sản Có có thể thanh khoản ngay bao gồm tiền mặt, tiền gửi tại ngân hàng trung ương và các ngân hàng khác, chứng khoán có khả năng mua bán được. Chỉ tiêu này thể hiện khả năng ngân hàng có thể đáp ứng được nhu cầu rút tiền hay thanh toán tức thời với số lượng lớn hay không.

Như vậy khả năng thanh khoản có thể được hiểu là khả năng của một tổ chức có thể hoàn thành được các nghĩa vụ tài chính của mình. Trong nghiệp vụ ngân hàng thì khả năng thanh khoản đủ có nghĩa là khả năng của ngân hàng có thể đáp ứng được các yêu cầu rút tiền bất cứ khi nào của người gửi hoặc là khả năng cung ứng được tất cả các khoản vay tín dụng hay vay tiền mặt cho người đi vay.

Theo thông lệ quốc tế, với mức tài sản có thanh khoản trên 40% tổng dư nợ tiền gửi có thể được coi là an toàn.

1.2.1.4. Khả năng sinh lời của ngân hàng

Là chỉ tiêu phản ánh kết quả hoạt động của ngân hàng, đồng thời cũng phản ánh một phần kết quả cạnh tranh của ngân hàng. Chỉ tiêu mức sinh lời có thể được phân tích thông qua những chỉ tiêu cụ thể như giá trị tuyệt đối của lợi nhuận; tốc độ tăng trưởng lợi nhuận, cơ cấu của lợi nhuận (cho biết lợi nhuận được hình thành từ nguồn nào, từ hoạt động kinh doanh thông thường hay từ các khoản thu nhập bất thường); tỷ suất sinh lợi trên vốn chủ sở hữu (ROE), tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản có (ROA), các chỉ tiêu về mức sinh lợi trong mối tương quan với chi phí…

Mức sinh lợi có thể được phân tích thông qua những chỉ tiêu như sau:

- ROE: Hệ số này thể hiện cứ mỗi đồng vốn tự có sẽ đem lại bao nhiêu lợi nhuận cho ngân hàng. Một ngân hàng được coi là có khả năng sinh lời cao nếu ROE cao hơn mức lợi nhuận kỳ vọng với các cổ phiếu đầu tư trên thị trường đó. Công thức:


20

- ROA: Hệ số này thể hiện cứ mỗi đồng tài sản sẽ đem lại bao nhiêu lợi nhuận cho ngân hàng. Một ngân hàng được coi là sinh lợi cao nếu có được hệ số này đạt mức trên 0,5%. Công thức:


Các ngân hàng hoạt động tốt thường có chỉ tiêu ROE đạt từ 13%-16%, ROA đạt từ 1,3%-1,5%. Tuy nhiên, các ngân hàng Việt Nam đặc biệt là các ngân hàng TMCP có đặc thù riêng gắn liền với nền kinh tế đang phát triển, ngân hàng có quy mô nhỏ và đang trong giai đoạn tăng trưởng nhanh của chu kỳ hoạt động ngân hàng nên thông thường các chỉ tiêu này phải đạt cao hơn.

1.2.1.5. Mức độ rủi ro

Mức độ rủi ro của các ngân hàng được đo bằng 2 chỉ tiêu cơ bản: Hệ số an toàn vốn (CAR: Capital Adequacy Ratio) và Chất lượng tín dụng (nợ quá hạn).

- Hệ số an toàn vốn CAR:

Theo quy định tại Điều 4, Thông tư số 13/2010/TT-NHNN ngày 20 tháng 05 năm 2010 của NHNN thi tổ chức tín dụng, trừ chi nhánh ngân hàng nước ngoài, phải duy trì tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu 9% giữa vốn tự có so với tổng tài sản “Có” rủi ro của tổ chức tín dụng (tỷ lệ an toàn vốn riêng lẻ). Công thức Tỷ lệ an toàn vốn riêng lẻ được xác định như sau:



Tỷ lệ an toàn vốn riêng lẻ (CAR)=

Vốn tự có


Tổng tài sản “Có” rủi ro


Trong đó:

- Vốn tự có: là tổng vốn cấp 1 và vốn cấp 2 trừ đi các khoản phải trừ theo quy định, cụ thể:

+ Vốn cấp 1 gồm: Vốn điều lệ (vốn đã được cấp, vốn đã góp), Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, Quỹ đầu tư phát triển nghiệp vụ, Lợi nhuận không chia, Thặng dư cổ phần được tính vào vốn theo quy định của pháp luật, trừ đi phần dùng để mua cổ phiếu quỹ (nếu có).

+ Vốn cấp 2 gồm: 50% số dư có tài khoản đánh giá lại tài sản cố định theo quy định của pháp luật, 40% số dư có tài khoản đánh giá lại tài sản theo quy định của pháp luật, Quỹ dự phòng tài chính, Trái phiếu chuyển đổi do tổ chức tín dụng phát hành.

+ Các khoản phải trừ theo quy định bao gồm: 100% số dư nợ tài khoản đánh giá lại tài sản cố định theo quy định của pháp luật và 100% số dư nợ tài khoản đánh giá lại tài sản tài chính theo quy định của pháp luật.

- Tổng tài sản “Có” rủi ro: là tổng giá trị tài sản “Có” xác định theo mức độ rủi ro và giá trị tài sản “Có” tương ứng của cam kết ngoại bảng xác định theo mức độ rủi ro. Chính là tỷ lệ giữa vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản có chứa rủi ro. Bắt đầu từ ngày

20/05/2010, tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu theo quy định của Thông tư số: 13/2010/TT- NHNN thì chỉ số CAR phải đạt tối thiểu 9%. Tỷ lệ này càng cao cho thấy khả năng về tài chính mạnh, càng tạo được uy tín, sự tin cậy, yên tâm cho khách hàng, trước đó tại Quyết định số: 457/2005/QĐ-NHNN thì CAR chỉ quy định ở mức 8%.

- Chất lượng tín dụng: Chất lượng tín dụng thể hiện chủ yếu thông qua tỷ lệ nợ quá hạn/tổng nợ. Công thức tính:

Theo Thông tư số 15/2010/TT-NHNN ngày 16 tháng 6 năm 2010 của Ngân hàng Nhà nước, các khoản dư nợ tín dụng khách hàng của ngân hàng được phân loại từ Nhóm 1 đến Nhóm 5, tương ứng với các loại Nợ đủ tiêu chuẩn (Nhóm 1), Nợ cần chú ý (2), Nợ dưới tiêu chuẩn (3), Nợ nghi ngờ (4) và Nợ có khả năng mất vốn (5). Các khoản nợ phân loại từ Nhóm 3-5 được xem là nợ xấu, tỷ lệ nợ xấu ở mức cho phép dưới 5%.

Tỷ lệ nợ xấu cho biết chất lượng và rủi ro của danh mục cho vay của ngân hàng, bao nhiêu đồng đang bị phân loại vào nợ xấu trên 100 đồng cho vay.

Tỷ lệ này cao so với trung bình ngành và có xu hướng tăng lên có thể là dấu hiệu cho thấy ngân hàng đang gặp khó khăn trong việc quản lý chất lượng các khoản cho vay. Ngược lại, tỷ lệ này thấp so với các năm trước cho thấy chất lượng các khoản tín dụng được cải thiện. Hoặc cũng có thể ngân hàng có chính sách xóa các khoản nợ xấu hay thay đổi các phân loại nợ.

1.2.2. Năng lực sản phẩm dịch vụ

Theo nhà kinh tế học Petes S. Rose: ” Thành công của một ngân hàng hoàn toàn phụ thuộc vào năng lực trong việc xác định các dịch vụ tài chính mà xã hội có nhu cầu, thực hiện các dịch vụ đó một cách có hiệu quả và bán chúng tại một mức giá cạnh tranh".

1.2.2.1. Sản phẩm dịch vụ

Với đặc tính riêng biệt của ngành ngân hàng là các sản phẩm - dịch vụ hầu như không có sự khác biệt thì các ngân hàng phát huy khả năng cạnh tranh của mình không chỉ bằng chất lượng, bằng công dụng cơ bản của sản phẩm, dịch vụ mà còn bằng sự độc đáo, tiện ích và đa dạng hoá sản phẩm, dịch vụ. Các ngân hàng phải tạo cho sản phẩm, dịch vụ của mình có tính tiện dụng cao, có nhiều tiện ích phụ, phù hợp cho nhiều đối tượng khách hàng.

Bên cạnh đó, các ngân hàng còn thường thu hút khách hàng bằng các sản phẩm, dịch vụ kèm theo, sản phẩm, dịch vụ phụ trợ: ví dụ, khi khách hàng rút tiền theo yêu cầu, ngân hàng sẽ giao tiền lại cho khách hàng, cung cấp sao kê tài khoản định kỳ, các sản phẩm, dịch vụ tư vấn tài chính cho khách.

Có thể nói, tính độc đáo và đa dạng của sản phẩm, dịch vụ ngân hàng là một trong những vũ khí rất hiệu quả trong việc nâng cao khả năng cạnh tranh của không chỉ ở ngành ngân hàng mà ở tất cả các ngành kinh doanh. Tuy nhiên, để tạo ra tính độc đáo và sự đa dạng hoá trong ngành ngân hàng là khá khó khăn vì đây là lĩnh vực mà sản phẩm, dịch vụ dễ dàng bị bắt chước. Hơn nữa, để có thể tạo ra tính độc đáo, đa dạng hoá được thì cần phải có một công nghệ hiện đại và còn phải phụ thuộc vào yếu tố tài chính, trình độ… mà không phải ngân hàng nào cũng làm được.

1.2.2.2. Năng lực đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ và chất lượng dịch vụ

Nhìn chung các ngân hàng thương mại đều có cùng các sản phẩm dịch vụ, nhưng vì sao có ngân hàng lại hoạt động rất phát triển, có ngân hàng vẫn yếu kém? có ngân hàng có rất nhiều khách hàng nhưng lại có những ngân hàng không thu hút được khách hàng? Để trả lời câu hỏi này thì có nhiều yếu tố liên quan song phải khẳng định rằng việc đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ ngân hàng và nâng cao chất lượng của các sản phẩm dịch vụ đó đóng vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động, nâng cao năng lực cạnh tranh, chiếm lĩnh thị phần đưa ngân hàng ngày càng phát triển.

Xem tất cả 151 trang.

Ngày đăng: 10/05/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí