Cạnh tranh mang lại nhiều lợi ích, đặc biệt cho người tiêu dùng. Nhà sản xuất phải tìm mọi cách để làm ra sản phẩm có chất lượng tốt hơn, đẹp hơn, có chi phí sản xuất rẻ hơn, tiện lợi hơn... để đáp ứng thị hiếu của người tiêu dùng.
Cạnh tranh là tiền đề của hệ thống free-enterprise (doanh nghiệp tự do) vì càng nhiều doanh nghiệp cạnh tranh với nhau thì sản phẩm hay dịch vụ cung cấp cho khách hàng sẽ càng có chất lượng tốt hơn. Nói cách khác, cạnh tranh sẽ đem đến cho khách hàng những sản phẩm có giá trị tối ưu nhất.
Ngoài mặt tích cực, cạnh tranh cũng đem lại những hệ quả không mong muốn về mặt xã hội. Nó làm thay đổi cấu trúc xã hội trên phương diện sở hữu của cải, phân hóa giàu nghèo, có những tác động tiêu cực khi cạnh tranh không lành mạnh, dùng các thủ đoạn vi phạm pháp luật hay bất chấp pháp luật. Vì lý do trên, cạnh tranh kinh tế bao giờ cũng phải được điều chỉnh bởi các định chế xã hội, sự can thiệp của nhà nước.
Cạnh tranh cũng có những tác động tiêu cực thể hiện ở cạnh tranh không lành mạnh như: những hành động vi phạm đạo đức, vi phạm pháp luật buôn lậu, trốn thuế, tung tin phá hoại, hoặc những hành vi cạnh tranh làm phân hóa giàu nghèo, tổn hại môi trường sinh thái… Vì thế, trên thương trường kinh doanh quốc tế thì một doanh nghiệp phải có một năng lực cạnh tranh cao mới có thể đó tồn tại và phát triển bền vững được.
1.4.4 Lao động
Lao động sáng tạo của con người là nhân tố quyết định đến hiệu quả hoạt động kinh doanh. Các doanh nghiệp cần đầu tư thỏa đáng để phát triển quy mô bồi dưỡng và đào tạo lực lượng lao động, đội ngũ trí thức có chất lượng cao trong các doanh nghiệp. Nâng cao nghiệp vụ kinh doanh, trình độ tay nghề của đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ sư, công nhân kỹ thuật để khai thác tối ưu nguyên vật liệu, năng suất máy móc, thiết bị công nghệ tiên tiến.
Đặc biệt là cán bộ quản trị, giám đốc phải được tuyển chọn kỹ càng, có trình độ hiểu biết cao. Giám đốc là nhà lãnh đạo kinh doanh, đảm bảo cho hoạt động kinh doanh có hiệu quả nên giám đốc phải có kiến thức về công nghệ, khoa học, về giao tiếp xã hội, về tâm lý, kinh tế,... tổng hợp những tri thức của cuộc sống và phải biết
vận dụng kiến thức vào tổ chức, ra quyết định những công việc trong thực tiễn hoạt động của doanh nghiệp.
Về công tác quản trị nhân sự, doanh nghiệp phải hình thành nên cơ cấu lao động tối ưu, phải bảo đảm việc làm trên cơ sở phân công và bố trí lao động hợp lý, sao cho phù hợp với năng lực, sở trường và nguyện vọng của mỗi người. Trước khi phân công bố trí hoặc đề bạt cán bộ đều phải qua kiểm tra tay nghề. Khi giao việc, cần xác định rõ chức năng, quyền hạn, nhiệm vụ, trách nhiệm. Đặc biệt công tác trả lương, thưởng, khuyến khích đối với người lao động luôn là vấn đề hết sức quan trọng.
Có thể bạn quan tâm!
- Giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất khẩu thủy sản của công ty cổ phần Hải Việt - 1
- Giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất khẩu thủy sản của công ty cổ phần Hải Việt - 2
- Các Yếu Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh
- Các Bước Tổ Chức Thực Hiện Hợp Đồng Xuất Khẩu
- Thực Trạng Về Hiệu Quả Kinh Doanh Xuất Khẩu Thủy Sản Của Công Ty Cổ Phần Hải Việt
- Sơ Lược Về Tình Hình Hoạt Động Xuất Khẩu Thủy Sản Của Ctcp Hải Việt
Xem toàn bộ 88 trang tài liệu này.
Động lực cũng là yếu tố để tập hợp, cấu kết người lao động lại. Trong doanh nghiệp, động lực cho tập thể và cá nhân người lao động chính là lợi ích, là lợi nhuận thu được từ sản xuất có hiệu quả hơn. Các doanh nghiệp cần phân phối lợi nhuận thỏa đáng, đảm bảo công bằng, hợp lý, thưởng phạt nghiêm minh. Đặc biệt cần có chế độ đãi ngộ thỏa đáng với những nhân viên giỏi, trình độ tay nghề cao hoặc có thành tích, có sáng kiến. Đồng thời cũng cần nghiêm khắc xử lý những trường hợp vi phạm.
1.4.5 Cơ cấu tổ chức
Tổ chức sao cho doanh nghiệp có bộ máy gọn, nhẹ, năng động, linh hoạt trước thay đổi của thị trường và phải thực sự phù hợp với các đặc điểm của doanh nghiệp: qui mô, ngành nghề kinh doanh, đặc điểm quá trình tạo ra sản phẩm, thì mới đảm bảo cho việc quản trị doanh nghiệp có hiệu quả được.
Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, chế độ trách nhiệm, quan hệ giữa các bộ phận với nhau, đưa hoạt động của doanh nghiệp đi vào nề nếp, tránh sự chồng chéo giữa chức năng và nhiệm vụ của các bộ phận. Thường xuyên duy trì và đảm bảo sự cân đối, tăng cường quan hệ giữa các khâu, các bộ phận trong quá trình sản xuất,... mới có thể nâng cao tinh thần trách nhiệm của mỗi người, nâng cao tính chủ động sáng tạo trong sản xuất.
Hệ thống thông tin bao gồm những yếu tố có liên quan mật thiết với nhau, tác động qua lại với nhau trong việc thu nhập, xử lý, bảo quản và phân phối thông tin nhằm hỗ trợ cho các hoạt động phân tích và đánh giá kiểm tra thực trạng và ra
quyết định về các vấn đề có liên quan đến hoạt động của một tổ chức. Việc thiết lập hệ thống thông tin phải đáp ứng các yêu cầu sau:
Hệ thống thông tin phải đáp ứng được nhu cầu sử dụng, được thiết lập với
đầy đủ các nội dung, các vấn đề mà doanh nghiệp quan tâm.
Hệ thống thông tin phải là hệ thống thường xuyên được cập nhật bổ sung.
Hệ thống cần phải được bố trí phù hợp với khả năng sử dụng, khai thác của doanh nghiệp.
1.4.6 Nguyên vật liệu
Một sản phẩm tốt thì nguồn gốc của nó phải là làm từ các vật liệu tốt. Như thế, doanh nghiệp cũng cần phải có nguồn cung cấp nguyên liệu đạt chất lượng tốt, một mặt là làm cho sản phẩm của mình luôn đạt chất lượng tốt, mặt khác tạo vị thế cạnh tranh của doanh nghiệp mình so với các doanh nghiệp khác sản xuất cùng loại sản phẩm.
Mục tiêu doanh nghiệp là phải có chiến lược về tìm kiếm nguồn cung ổn định, chất lượng, lâu dài thì doanh nghiệp mới có thể phát triển bền vững được, bên cạnh đó thì công tác nguyên cứu nguyên vật liệu mới thay thế cũng không kém phần quan trọng trong công tác sản xuất sản phẩm. Đồng thời nếu có được nguồn nguyên liệu tốt cũng làm giảm chi phí chế biến thành phẩm cho doanh nghiệp. Bên cạnh đó thì công nghệ cũng góp phần trong công tác làm giảm lãng phí nguyên liệu cũng cần được doanh nghiệp quan tâm.
1.4.7 Công nghệ kỹ thuật
Một trong những lý do làm hiệu quả kinh tế ở các doanh nghiệp thấp là do thiếu kỹ thuật, công nghệ hiện đại. Do vậy, vấn đề nâng cao kỹ thuật, đổi mới công nghệ là vấn đề luôn được quan tâm ở các doanh nghiệp. Tùy thuộc vào loại hình kinh doanh, đặc điểm ngành kinh doanh, mục tiêu kinh doanh mà doanh nghiệp có chính sách đầu tư công nghệ thích đáng. Tuy nhiên, việc phát triển kỹ thuật công nghệ đòi hỏi phải có đầu tư lớn, phải có thời gian dài và phải được xem xét kỹ lưỡng các vấn đề sau:
Dự đoán đúng cầu của thị trường và cầu của doanh nghiệp về loại sản phẩm doanh nghiệp có ý định đầu tư phát triển. Dựa trên dự đoán này doanh nghiệp mới có những mục tiêu cụ thể trong đổi mới công nghệ.
Lựa chọn công nghệ phù hợp. Các doanh nghiệp trên cơ sở mục tiêu của sản xuất đã đề ra có những biện pháp đổi mới công nghệ phù hợp. Cần tránh việc nhập công nghệ lạc hậu, lỗi thời, tân trang lại, gây ô nhiễm môi trường.
Rút ngắn thời gian xây dựng để nhanh chóng đưa dự án đầu tư vào hoạt động luôn là nhân tố ảnh hưởng mạnh mẽ đến việc nâng cao hiệu quả kinh tế của đầu tư kỹ thuật công nghệ.
Trong đổi mới công nghệ không thể không quan tâm đến nghiên cứu sử dụng vật liệu mới và vật liệu thay thế. Vì giá trị nguyên vật liệu thường chiếm tỷ trọng cao trong giá thành của nhiều loại sản phẩm, dịch vụ. Hơn nữa, việc sử dụng nguyên vật liệu mới thay thế trong nhiều trường hợp còn có ý nghĩa rất lớn trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm.
Máy móc thiết bị luôn là nhân tố quyết định năng suất, chất lượng và hiệu quả. Trong công tác quản trị kỹ thuật công nghệ, việc thường xuyên nghiên cứu, phát triển kỹ thuật đóng vai trò quyết định. Bên cạnh đó, công tác bảo quản máy móc thiết bị, đảm bảo cho máy móc luôn hoạt động đúng kế hoạch và tận dụng công suất của thiết bị máy móc cũng đóng vai trò không nhỏ vào việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh nói chung.
Đổi mới công nghệ phải đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm, thực hiện tốt công tác kiểm tra kỹ thuật và nghiệm thu sản phẩm, tránh để cho những sản phẩm chất lượng kém ra tiêu thụ trên thị trường.
1.4.8 Mối quan hệ
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa các doanh nghiệp mở rộng theo hướng sản xuất lớn, xã hội hóa và mở cửa làm cho mối quan hệ lẫn nhau trong xã hội ngày càng chặt chẽ. Doanh nghiệp nào biết sử dụng mối quan hệ tốt sẽ khai thác được nhiều đơn hàng, tiêu thụ tốt. Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp muốn đạt hiệu quả cao cần tranh thủ tận dụng các lợi thế, hạn chế khó khăn của môi trường kinh doanh bên ngoài. Đó là:
* Giải quyết tốt mối quan hệ với khách hàng: là mục đích chủ yếu trong kinh doanh, vì khách hàng là người tiếp nhận sản phẩm, người tiêu dùng sản phẩm của doanh nghiệp. Khách hàng có được thỏa mãn thì sản phẩm mới được tiêu thụ, doanh nghiệp mới có thể tồn tại và phát triển được.
* Tạo ra sự tín nhiệm, uy tín trên thị trường đối với doanh nghiệp về chất lượng sản phẩm, tác phong kinh doanh, tinh thần phục vụ,... bất cứ doanh nghiệp nào muốn có chỗ đứng trên thị trường đều phải gây dựng sự tín nhiệm. Đó là quy luật tồn tại trong cạnh tranh.
* Giải quyết tốt mối quan hệ với các đơn vị cung ứng sẽ đem lại cho doanh nghiệp một nguồn cung về nguyên vật liệu ổn định, đúng chất lượng. Điều này cũng góp phần làm cho sản phẩm mà doanh nghiệp tạo ra luôn đạt chất lượng.
* Giải quyết tốt mối quan hệ với các tổ chức quảng cáo, các cơ quan lãnh đạo doanh nghiệp,... thông qua các tổ chức này để mở rộng ảnh hưởng của doanh nghiệp, tạo cho khách hàng, người tiêu dùng biết đến sản phẩm của doanh nghiệp nhiều hơn, đồng thời bảo vệ uy tín và sự tín nhiệm của khách hàng đối với doanh nghiệp.
1.5 Khái niệm và vai trò của xuất khẩu
1.5.1 Khái niệm xuất khẩu
Xuất khẩu là một hoạt động kinh doanh thu lợi nhuận bằng cách bán sản phẩm hoặc dịch vụ ra thị trường nước ngoài, sản phẩm hay dịch vụ đó phải di chuyển ra khỏi biên giới của một quốc gia.
Một quan niệm khác lại cho rằng xuất khẩu là việc bán hàng hóa và dịch vụ cho một quốc gia khác trên cơ sơ dùng tiền tệ làm phương tiện thanh toán, với mục tiêu là lợi nhuận.
Mặc dù có rất nhiều cách hiểu khác nhau về xuất khẩu nhưng mục đích chính của xuất khẩu vẫn là khai thác được lợi thế của các quốc gia trong phân công lao động quốc tế, tạo nguồn thu ngoại tệ cho đất nước.
Xuất khẩu phản ánh mối quan hệ thương mại, buôn bán giữa các quốc gia trong phạm vi khu vực và trên toàn thế giới.
1.5.2 Nhiệm vụ và vai trò của việc xuất khẩu hàng hóa
Nhiệm vụ của hoạt động xuất khẩu là khai thác được lợi thế của từng quốc gia trong phân công lao động quốc tế. Dựa trên cơ sở là sự phát triển hoạt động mua bán hàng hóa trong nước, hơn bao giờ hết xuất khẩu đang diễn ra mạnh mẽ cả về chiều rộng lẫn chiều sâu trong tất cả các ngành, các lĩnh vực dưới mọi hình thức đa dạng phong phú và không chỉ với hàng hóa hữu hình mà còn cả hàng hóa vô hình. Nhưng cho dù thế nào thì mục tiêu của xuất khẩu vẫn nhằm đem lại lợi ích cho tất cả các bên tham gia.
Đối với nền kinh tế quốc gia
Xuất khẩu gia tăng sẽ tạo thêm công ăn việc làm trong nền kinh tế, nhất là trong ngành sản xuất cho hàng hoá xuất khẩu, làm gia tăng đầu tư ->Là nhân tố kích thích nền kinh tế tăng trưởng.
Xuất khẩu tích cực giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống người dân. Xuất khẩu làm tăng GDP, làm gia tăng nguồn thu nhập quốc dân.
- Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu: nhập khẩu máy móc, thiết bị, công nghệ hiện đại để phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa- hiện đại hóa.
- Xuất khẩu góp phần chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển, tạo điều kiện cho các ngành khác phát triển. Xuất khẩu không chỉ tác động làm gia tăng nguồn thu ngoại tệ mà còn giúp gia tăng nhu cầu sản xuất, kinh doanh ở những ngành liên quan khác. Xuất khẩu tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ, giúp cho sản xuất ổn định và kinh tế phát triển vì có nhiều thị trường=>phân tán rủi ro do cạnh tranh.
Đối với các doanh nghiệp
Xuất khẩu tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm do doanh nghiệp sản xuất ra. Nhờ có xuất khẩu mà tên tuổi của doanh nghiệp không chỉ các khách hàng trong nước biết đến mà còn các khách hàng ở nước ngoài cũng biết đến sản phẩm của doanh nghiệp.
Xuất khẩu tạo nguồn ngoại tệ cho doanh nghiệp, tăng dự trữ qua đó nâng cao khả năng nhập khẩu, thay thế, bổ sung, nâng cấp máy móc thiết bị, nguyên vật liệu phục vụ cho quá trình sản xuất.
Xuất khẩu phát huy cao độ tính năng động sáng tạo của cán bộ xuất – nhập khẩu cũng như các đơn vị tham gia, tích cực tìm tòi và phát triển khả năng xuất khẩu các mặt hàng xuất khẩu tất yếu dẫn đến cạnh tranh không những trong nước mà còn ở thị trường nước ngoài. Vì thế mà các doanh nghiệp luôn phải đổi mới và hoàn thiện công tác quản trị kinh doanh, nâng cao chất lượng sản phẩm và cũng phải hạ giá thành sản phẩm từ đó tiết kiệm yếu tố đầu vào, nguồn nhân lực.
Xuất khẩu còn làm cho đời sống lao động trong doanh nghiệp được nâng cao hơn, nâng cao thu nhập giúp phần ổn định đời sống của người lao động.
1.5.3 Một số hình thức xuất khẩu chủ yếu của doanh nghiệp Việt Nam Xuất khẩu trực tiếp
Là việc xuất khẩu các loại hàng hóa, dịch vụ do chính doanh nghiệp sản xuất ra hoặc thu mua từ các đơn vị sản xuất trong nước bán cho khách hàng nước ngoài thông qua tổ chức của mình.
Trong trường hợp doanh nghiệp tham gia xuất khẩu là doanh nghiệp thương mại không tự sản xuất ra sản phẩm thì việc xuất khẩu bao gồm 2 công đoạn:
- Thua mua tạo nguồn hàng xuất khẩu các đơn vị trong nước.
- Đàm phán ký kết với doanh nghiệp nước ngoài, giao hàng và thanh toán tiền hàng với nhà nhập khẩu.
Hình thức này tuy rủi ro có tăng lên song nhà sản xuất có cơ hội thu lợi nhuận nhiều hơn nhờ giảm bớt các chi phí trung gian và nắm bắt kịp thời những thông tin biến động thị trường để có những biện pháp đối phó.
Khi tham gia xuất khẩu trực tiếp thì doanh nghiệp phải chuẩn bị một số công việc: nghiên cứu kỹ về thị trường, loại hàng, các điều kiện giao dịch. Lựa chọn người có đủ năng lực tham gia giao dịch hàng hóa, dịch vụ.
Xuất khẩu ủy thác
Đây là hình thức kinh doanh trong đó đơn vị XNK đóng vai trò là người trung gian thay cho vị trí đơn vị sản xuất tiến hành ký kết hợp đồng xuất khẩu, tiến hành làm các thủ tục cần thiết để xuất khẩu do đó nhà xuất khẩu ủy thác đựơc hưởng lợi một số tiền nhất định gọi là phí ủy thác.
Hình thức này bao gồm các bứơc sau:
Ký kết hợp đồng xuất khẩu ủy thác với đơn vị trong nứơc.
Ký hợp đồng xuất khẩu, giao hàng và thanh toán tiền hàng với bên nước ngoài (nhà NK).
Nhận phí ủy thác xuất khẩu từ đơn vị trong nước.
- Quyền lợi và nghĩa vụ của bên ủy thác, bên nhận ủy thác xuất khẩu, nhập khẩu do các bên tự thoả thuận trong hợp đồng ủy thác, nhận ủy thác xuất khẩu, nhập khẩu.
Gia công quốc tế
Đây là phương thức kinh doanh trong đó một bên gọi là bên nhận gia công nguyên vật liệu hoặc bán thành phẩm của một bên khác gọi là bên đặt gia công, để chế biến ra thành phẩm giao cho bên đặt gia công và nhận phí gia công.
Đây là một trong những hình thức xuất khẩu đang có bước phát triển mạnh mẽ và đựơc nhiều quốc gia chú trọng.
Các hình thức gia công quốc tế
Nhận nguyên liệu hoặc bán thành phẩm giao thành phẩm cho bên đặt gia công và thu phí gia công.
Mua đứt, bán đoạn dựa trên hợp đồng mua bán dài hạn với nước ngoài.
Kết hợp là hình thức trong đó bên đặt gia công chỉ giao nguyên vật liệu chính còn bên nhận gia công cung cấp những nguyên vật liệu phụ. Sau khi chế biến gia công thì bên nhận gia công sẽ giao thành phẩm cho bên đặt gia công và thu một khoản lợi nhuận từ các nguyên phụ liệu và khoản phí gia công.