Chương II : Thực trạng mở rộng hoạt động tín dụng đối với DNNQD tại VP Bank Giảng Võ
Chương III : Một số giải pháp nhằm mở rộng hoạt động tín dụng đối với các DNNQD tại VP Bank Giảng Võ.
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG VÀ VAI TRÒ CỦA TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP NGOÀI QUỐC DOANH
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
1. Khái niệm và đặc trưng của tín dụng ngân hàng
Khi nghiên cứu về tín dụng ngân hàng, chúng ta cần tìm hiểu khái niệm về tín dụng ngân hàng, những đặc trưng của tín dụng ngân hàng và các hình thức tín dụng ngân hàng...
1.1. Khái niệm tín dụng ngân hàng
Tín dụng ra đời cùng với sự xuất hiện của tiền tệ. Khi một chủ thể kinh tế cần một lượng hàng hóa cho nhu cầu tiêu dùng hoặc sản xuất trong khi chưa có tiền hoặc số tiền hiện có chưa đủ họ có thể sử dụng hình thức vay mượn để đáp ứng nhu cầu. Quan hệ vay mượn như vậy gọi là quan hệ tín dụng.
Tín dụng xuất phát từ chữ La tinh Creditium có nghĩa là tin tưởng, tín nhiệm. Tiếng anh gọi là Credit.
Theo ngôn ngữ dân gian Việt Nam, tín dụng có nghĩa là sự vay mượn. Tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời quyền sử dụng một lượng giá trị dưới hình thức hiện vật hay tiền tệ, từ người sở hữu sang người sử dụng sau đó hoàn trả lại với một giá trị lớn hơn.
Như vậy, tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ người sở hữu sang người sử dụng để sau một thời gian nhất định thu hồi về một lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu1
Sự phát triển của nền kinh tế đã, đang và sẽ thúc đẩy quan hệ tín dụng phát triển thông qua các hình thức: tín dụng thương mại, tín dụng doanh
1 Lý thuyết tài chính, TS Tô Thị Ngọc Diệp, trang 84
nghiệp, tín dụng nhà nước, tín dụng ngân hàng. Chúng ta sẽ tìm hiểu về tín dụng ngân hàng.
Ta có thể định nghĩa tín dụng ngân hàng như sau: Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa một bên là ngân hàng với một bên là các tổ chức kinh tế, cá nhân, hộ gia đình... trong xã hội, trong đó ngân hàng giữ vai trò vừa là người đi vay, vừa là người cho vay.2
Cho vay là quyền của NHTM với tư cách là người cho vay (chủ nợ) bắt buộc người đi vay (con nợ) phải trả một số tiền hay một tài sản nhất định hay thực hiện một dịch vụ nào đó. Về phương diện này, với tư cách là người cho vay, các NHTM có quyền yêu cầu khách hàng của mình - người đi vay muốn vay được vốn phải tuôn thủ những điều kiện nhất định là cơ sở ràng buộc về mặt pháp lý đảm bảo cho người cho vay có thể thu hồi được vốn sau một thời gian nhất định.
Tín dụng ngân hàng ra đời có vai trò rất quan trọng trong sự phát triển kinh tế- xã hội, góp phần đẩy nhanh nhịp độ tích tụ, tập trung vốn và tăng cường khả năng cạnh tranh giữa các doanh nghiệp. Tín dụng ngân hàng là cầu nối, là trung gian giữa những người thừa vốn và những người cần vốn để mở rộng phát triển qui mô sản xuất kinh doanh của mình, đặc biệt là vai trò cung cấp vốn cho nhu cầu kinh doanh của các DNNQD...
1.2. Đặc trưng của tín dụng ngân hàng
Thứ nhất, tín dụng là quan hệ chuyển nhượng mang tính tạm chất thời. Tính chất tạm thời của sự chuyển nhượng chính là thời gian sử dụng lượng giá trị đó. Nó là kết quả của sự thoả thuận giữa các bên tham gia quá trình chuyển nhượng để đảm bảo thời gian nhàn rỗi và thời gian cần sử dụng lượng giá trị đó. Thực chất trong quan hệ tín dụng chỉ có sự chuyển nhượng quyền sử dụng lượng giá trị tạm thời nhàn rỗi trong một khoảng thời gian nhất định mà không có sự thay đổi quyền sở hữu đối với lượng giá trị đó.
2 Nghiệp vụ ngân hàng thương mại, TS Nguyễn Thị Mùi, trang 19
Thứ hai, tín dụng là quan hệ vay mượn có tính hoàn trả. Lượng vốn được chuyển nhượng phải được hoàn trả đúng hạn cả thời gian và lượng giá trị bao gồm cả gốc và lãi. Phần lãi đảm bảo cho lượng giá trị hoàn trả lớn hơn lượng giá trị ban đầu. Sự chênh lệch này là giá trả cho quyền sử dụng vốn tạm thời.
Thứ ba, tín dụng là quan hệ dựa trên cơ sở sự tin tưởng giữa người cho vay và người đi vay. Nếu không có sự tin tưởng quan hệ tín dụng sẽ không hình thành. Người cho vay tin tưởng rằng vốn sẽ được hoàn trả đầy đủ khi đến hạn. Người đi vay cũng tin tưởng vào khả năng phát huy hiệu quả vốn vay. Đây là điều kiện tiên quyết để thiết lập quan hệ tín dụng.
Ngoài ra tín dụng còn có đặc trưng sau: hoạt động tín dụng luôn bị chi phối bởi các quy luật kinh tế khách quan của nền kinh tế như quy luật dân số, quy luật chính trị, chính sách của NHNN... Hoạt động tín dụng luôn chứa đựng khả năng rủi ro. Vì vậy các NHTM nắm được đặc trưng này để có những biện pháp phòng ngừa rủi ro trong hoạt động kinh doanh.
2. Phân loại tín dụng ngân hàng
Tín dụng ngân hàng được chia làm nhiều loại khác nhau, tuỳ vào từng căn cứ có các loại tín dụng khác nhau.
- Căn cứ vào mục đích sử dụng:
+ Cho vay phục vụ sản xuất kinh doanh : là hình thức cho vay cấp cho các doanh nghiệp, các chủ thể kinh doanh tiến hành phục vụ sản xuất kinh doanh.
+ Cho vay tiêu dùng: là hình thức cho vay tài trợ cho nhu cầu tiêu dùng của cá nhân, hộ gia đình.
- Căn cứ vào thời gian tín dụng:
+ Tín dụng ngắn hạn: Là loại hình cho vay có thời hạn không quá 12 tháng nhằm đáp ứng các nhu cầu vốn ngắn hạn như bổ sung ngân quỹ, đảm bảo yêu cầu thanh toán đến hạn, bổ sung nhu cầu vốn lưu động của các doanh
nghiệp hay đáp ứng nhu cầu tiêu dùng cá nhân. Đây là loại tín dụng có mức rủi ro thấp vì thời gian hoàn vốn nhanh, tránh được các rủi ro về lãi suất, về lạm phát cũng như sự bất ổn định của môi trường kinh tế vĩ mô. Vì thế lãi suất thường thấp hơn các loại tín dụng khác.
+ Tín dụng trung hạn: Là loại hình cho vay có thời hạn từ 1-5 năm, chủ yếu được sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị, công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng các dự án mới có quy mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh.
+ Tín dụng dài hạn: Là loại hình cho vay có thời hạn trên 5 năm, chủ yếu là để đáp ứng nhu cầu dài hạn như: xây dựng nhà ở, đầu tư các thiết bị, phương tiện vận tải có quy mô lớn, xây dựng các xí nghiệp mới.
- Căn cứ vào tính chất bảo đảm:
+ Cho vay có bảo đảm: Loại hình cho vay này được ngân hàng cung ứng vốn phải có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc phải có sự bảo lãnh của bên thứ ba. Việc bảo đảm này sẽ là căn cứ pháp lý để ngân hàng có thêm một nguồn thu nợ thứ hai bổ sung cho nguồn thu nợ thứ nhất thiếu chắc chắn.
+ Cho vay không có bảo đảm: Đó là các khoản cho vay tín nhiệm, các khoản cho vay mà không có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của bên thứ ba, việc cho vay này chủ yếu dựa vào uy tín của khách hàng mà không cần có điều kiện bổ sung.
- Căn cứ vào phương thức hoàn trả:
+ Cho vay trả góp: là hình thức cho vay trong đó người đi vay hoàn trả cho ngân hàng bao gồm cả gốc lẫn lãi làm nhiều kỳ.
+ Cho vay phi trả góp: là hình thức cho vay trong đó người đi vay hoàn trả cho ngân hàng khi đến hạn.
+ Cho vay tuần hoàn: theo phương thức này trong thời gian tín dụng đã thoả thuận căn cứ vào thu chi của khách hàng trong thời kỳ khách hàng được
ngân hàng cho phép vay và trả nợ nhiều lần một cách tuần hoàn trong một hạn mức nhất định.
- Căn cứ vào chủ thể tín dụng:
+ Tín dụng thương mại là quan hệ tín dụng giữa các doanh nghiệp được thể hiện dưới hình thức mua bán chịu hàng hoá hoặc ứng tiền trước khi nhận hàng.
+ Tín dụng ngân hàng là hình thức tín dụng thể hiện quan hệ giữa các tổ chức tín dụng với các doanh nghiệp và cá nhân.
+ Tín dụng nhà nước là hình thức tín dụng thể hiện mối quan hệ giữa nhà nước với nhân dân và các tổ chức khác theo đó nhà nước chủ động vay tiền để tăng nguồn thu ngân sách.
+ Tín dụng quốc tế là hình thức tín dụng thể hiện quan hệ giữa nước ta với các quốc gia hay các tổ chức tiền tệ tín dụng quốc tế.
3. Các hình thức tín dụng ngân hàng đối với cho vay doanh nghiệp
Các tổ chức tín dụng được cấp tín dụng cho tổ chức, cá nhân dưới các hình thức cho vay, chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá khác, bảo lãnh, cho thuê tài chính và các hình thức khác theo quy định của ngân hàng nhà nước3
Để hạn chế rủi ro cũng như tăng lợi nhuận, các ngân hàng không ngừng hoàn thiện về quản lý, tổ chức cũng như đáp ứng một cách tốt nhất các đòi hỏi của thị trường và không ngừng đa dạng hoá các hình thức tín dụng. Hiện nay các NHTM cung cấp cho doanh nghiệp những hình thức tín dụng sau:
- Tín dụng ngắn hạn: Tín dụng ngắn hạn là loại tín dụng có thời hạn đến 12 tháng. Đây là tín dụng chiếm tỷ trọng lớn nhất của NHTM chủ yếu đáp ứng nhu cầu vốn lưu động của các doanh nghiệp. Nhu cầu vốn lưu động của các doanh nghiệp xuất phát từ độ lệch các luồng lưu chuyển tiền tệ. Tức là luồng
3 Nghị định số 49/2000/NĐ-CP ngày 12/9/2000 của chính phủ về tổ chức và hoạt động của các ngân hàng thương mại
tiền vào và luồng tiền ra của doanh nghiệp thường không khớp nhau về quy mô và thời gian. Doanh nghiệp vay ngắn hạn ngân hàng để đáp ứng nhu cầu vốn có tính thời vụ của mình. Ngân hàng có các hình thức tài trợ tín dụng ngắn hạn sau:
+ Chiết khấu thương phiếu: là một nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn, trong đó khách hàng chuyển nhượng thương phiếu chưa đáo hạn cho ngân hàng đổi lấy một số tiền bằng mệnh giá của thương phiếu trừ lãi suất chiết khấu và hoa hồng phí (nếu có). Chiết khấu thương phiếu là một trong những nghiệp vụ cho vay cổ điển của các ngân hàng và ngày nay được áp dụng phổ biến trên thế giới. Đây là một hình thức cấp tín dụng gián tiếp giúp doanh nghiệp thoả mãn nhu cầu vốn lưu động không thường xuyên, nhanh, dễ dàng, góp phần đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn. Đồng thời đây cũng là nghiệp vụ tín dụng có mức độ bảo đảm cao, mức sinh lời chắc chắn, giúp ngân hàng nắm giữ tài sản tài chính có tính lỏng cao tránh tình trạng đóng băng vốn.
+ Cho vay thấu chi: Là hình thức cho vay mà ngân hàng cho phép khách hàng được rút quá số dư trên tài khoản vãng lai trong một thời hạn và hạn mức nhất định trên cơ sở hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng. Hình thức cho vay thấu chi có ưu điểm hơn so với các hình thức cho vay khác là: Doanh số cho vay có thể cao gấp nhiều lần so với hạn mức tín dụng, tính chủ động của khách hàng cao hơn khi sử dụng nguồn vốn này cho nên thường là ngân hàng áp dụng đối với khách hàng có tín nhiệm hoặc có sự đảm bảo bằng tài sản lớn hơn hạn mức tín dụng mà ngân hàng cung cấp.
+ Cho vay theo hình thức cầm cố hàng hóa: Người đi vay phải dùng hàng hóa hoặc các chứng từ sở hữu hàng hóa làm vật đảm bảo tiền vay. Giá trị hợp đồng tín dụng được tính theo giá trị vào thời điểm vay.
+ Cho vay ứng trước: Cho vay theo hạn mức: là hình thức cho vay căn cứ vào sự thoả thuận về thời hạn cho vay khách hàng được ngân hàng cho phép vay trong hạn mức tín dụng đã thoả thuận.
= | Nhu cầu vốn sản xuất kinh doanh | - | Vốn chủ sở hữu và vốn khác |
Có thể bạn quan tâm!
- Giải pháp mở rộng hoạt động tín dụng đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại VP bank Giảng Võ - 1
- Vai Trò Của Tín Dụng Ngân Hàng Đối Với Sự Phát Triển Của Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh
- Vai Trò Của Tín Dụng Ngân Hàng Đối Với Sự Phát Triển Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh
- Quá Trình Hình Thành Và Phát Triển Của Vp Bank Giảng Võ
Xem toàn bộ 97 trang tài liệu này.
Cho vay từng lần: là tiến trình cấp tín dụng dựa trên cơ sở nhu cầu tín dụng của từng đối tượng vay cụ thể. Đây là phương thức cho vay đơn giản, phù hợp với trình độ, năng lực quản lý và tổ chức của doanh nghiệp vừa và nhỏ và với khách hàng có nhu cầu vay vốn không thường xuyên, chỉ vay theo từng lần có nhu cầu.
- Tín dụng trung và dài hạn: Là hình thức tín dụng có thời hạn cho vay từ 1-5 năm và trên 5 năm, chủ yếu được sử dụng để đầu tư mua sắm TSCĐ, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị, công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng các dự án mới có quy mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh… Ngân hàng có các hình thức tín dụng trung và dài hạn là:
+ Cho vay theo dự án: đây là khoản tín dụng đầu tư tài trợ mua sắm cho TSCĐ hay xây dựng các công trình được dự tính sẽ mang lại thu nhập ròng trong tương lai. Thông thường các doanh nghiệp yêu cầu được vay một khoản dựa trên chi phí dự tính của dự án và cam kết khoản vay làm nhiều lần
= | Tổng dự toán dự án | - | Vốn tự có chủ đầu tư | - | Các nguồn vốn huy động khác |
Đối tượng cho vay là toàn bộ tập hợp chi phí cả dự án như: chi phí xây lắp, chi phí thiết bị và chi phí xây dựng cơ bản khác...
+ Cho vay đồng tài trợ: Là hình thức cho vay trong đó một nhóm các tổ chức tài chính cùng liên kết lại tập hợp vốn vay cho một khách hàng. Đối với các dự án lớn, ngân hàng sẽ sử dụng hình thức này nhằm phân chia lợi nhuận, phân tán rủi ro, đồng thời phù hợp với khả năng cân đối nguồn vốn sẵn có của ngân hàng đó.