Công Ty Cổ Phần Thủy Sản Bình An (Bianfishco)


cả nước. Đây là lý do Chính phủ Việt Nam phải tiến hành tái cơ cấu tập đoàn này. Một số công ty thành viên bị cho phá sản, giải thể.

Tháng 7 năm 2010, Thanh tra Chính phủ thực hiện thanh tra toàn diện tình hình tài sản, kết quả sản xuất kinh doanh của Vinashin. Theo báo cáo của Thanh tra Chính phủ gửi Thủ tướng, tính tới cuối năm 200 , tổng giá trị tài sản của Vinashin đạt hơn

102.500 tỷ đồng. Nếu loại trừ các công nợ nội bộ thì tổng giá trị tài sản c n lại gần

2.600 tỷ đồng. Tổng nợ phải trả của Vinashin tính đến thời điểm cuối năm 200 là hơn 6. 00 tỷ đồng bao gồm 50 triệu đô la trái phiếu Chính phủ bảo lãnh vay, nợ các ngân hàng trong và ngoài nước, nợ các đối tác. Tổng vốn chủ sở hữu của Vinashin là 5. 00 tỷ đồng. Trong năm 200 , Vinashin thực lỗ gần 5.000 tỷ đồng, nhiều hơn 3.300 tỷ so với báo cáo tài chính của Vinashin 1. 00 tỷ đồng .

Theo thông tin từ C, ngày 1 tháng 11 năm 2011 Vinashin đã chính thức bị Công ty Elliot VIN Hà Lan khởi kiện lên t a án tại Anh, liên quan đến khoản nợ 600 triệu đô la vay bằng trái phiếu, 60 triệu đô la từ khoản vay này đã đến hạn trả nợ từ tháng 12 năm 2010 nhưng Vinashin và các công ty con không có khả năng thanh toán.

Tại Việt Nam, nợ tín dụng của Vinashin là hơn 10.000 tỷ đồng, phần lớn đã quá hạn, chủ yếu vay từ các ngân hàng như: Ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển 2. 00 tỷ đồng , Ngân hàng Công Thương 2.000 tỷ đồng , Ngân hàng ài G n Hà Nội 3.300 tỷ đồng , Ngân hàng Phát Triển Việt Nam 3.000 tỷ đồng …. Các ngân hàng đã trích lập dự ph ng gần như 100% dư nợ cho vay Vinashin.

Việc xử lý các khoản quá hạn rất khó khăn vì phần lớn nợ không có tài sản đảm bảo, trường hợp có tài sản đảm bảo chủ yếu là tàu thủy nên khả năng chuyển nhượng để thu hồi nợ rất kém. Có nhiều phương án đưa ra để giải quyết những khoản nợ của Vinashin trong đó phương án đã được thực hiện là phát hành trái phiếu với sự đảm bảo của Chính phủ để thanh toán một phần dư nợ theo phương thức chủ thể nhận nợ 25%

tổng dư nợ bằng trái phiếu chính phủ; Nhà nước hỗ trợ 30% trong thời hạn 1- 3 năm.


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 120 trang tài liệu này.

Phần dư nợ c n lại được khoanh, giãn. Cơ chế hỗ trợ là để các chủ nợ có thể kinh doanh tài sản thế chấp, xử lý rủi ro (Nguyễn Thị Anh Đào, 2011 .

Từ vụ việc của Vinashin, đứng dưới góc độ kinh tế với vai tr là người cho vay theo các báo cáo tổng kết của ngân hàng có thể đúc kết các nguyên nhân gây ra nợ xấu: Thứ nhất, tập trung cho vay nhóm khách hàng và áp lực về tăng trưởng dư

Giải pháp hạn chế và xử lý nợ xấu tại Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn - Hà Nội - 9

nợ

Việc tập trung cho vay nhóm khách hàng thuộc Vinashin từng được coi là chính

sách “đón đầu” của ngân hàng. Chỉ tính riêng dư nợ cho vay đến tháng 2.2012 vào các công ty thuộc tập đoàn Vinashin đã lên tới 2. 45 tỷ đồng, ngoài ra ngân hàng c n tham gia mua trái phiếu doanh nghiệp Vinashin 600 tỷ đồng. Tuy nhiên việc tập trung quá nhiều vào nhóm khách hàng này tương đương 3% vốn điều lệ của ngân hàng dẫn đến khi kinh tế suy thoái, ngân hàng bị ảnh hưởng nặng nề từ việc tập trung tín dụng này. Riêng chi phí huy động vốn hằng năm ngân hàng phải trả để duy trì dư nợ này đã làm ngân hàng phát sinh chi phí đến khoảng 500 tỷ đồng/năm.

Tăng trưởng tín dụng là một trong những mục tiêu hàng đầu của ngân hàng, tuy nhiên, ngân hàng tăng trưởng tín dụng không chú trọng danh mục tín dụng tăng trưởng mà chỉ tập trung tăng trưởng vào các công ty thuộc Vinashin dẫn đến nợ xấu tăng lên nhanh chóng khi Vinashin mất khả năng chi trả nợ.

Thứ hai, hệ thống quản trị rủi ro không phát hiện và ngăn ngừa các hành vi gian lận của khách hàng

Hiệu quả hoạt động quản trị điều hành không hiệu quả dẫn đến tổn thất cho ngân hàng. Công tác thẩm định và đánh giá khách hàng, quản lý và giám sát sau giải ngân c n lỏng lẻo và thiếu sót, dẫn đến ngân hàng không phát hiện, ngăn chặn và kiểm soát việc giải ngân cho khách hàng chưa tốt. Việc thẩm định tín dụng chủ yếu dựa vào tài sản đảm bảo cụ thể là các con tàu mà chưa đánh giá toàn diện khách hàng trên các khía cạnh v mô của nền kinh tế, ngành nghề kinh doanh, năng lực tài chính của khách hàng…


Vinashin là doanh nghiệp hoạt động trong l nh vực đóng tàu và vận tải biển. Đây là khách hàng có chu kỳ kinh doanh và v ng quay vốn tương đối dài hạn, lại chịu ảnh hưởng trực tiếp của các biến động kinh tế v mô trong thời gian vừa qua. Như vậy, khi thẩm định cho vay, ngân hàng đã không xem xét đến các yếu tố này dẫn đến nợ xấu khi Vinashin đối mặt với biến động từ môi trường kinh doanh.

Vinashin sử dụng vốn vay sai mục đích, đầu tư dàn trải trong khoảng thời gian dài nhưng ngân hàng không phát hiện hoặc cố tình không phát hiện để đến khi Vinashin không c n khả năng trả nợ vay thì đã quá muộn, không c n khả năng thu hồi dẫn đến thất thoát vốn vay. Như vậy, công tác kiểm tra, giám sát sau cho vay của các ngân hàng là rất kém, và lỏng lẻo, thiếu sự theo sát khách hàng.

Thứ ba, Vinashin kinh doanh không hiệu quả, năng lực quản lý kém của ban giám đốc

Việc Vinashin kinh doanh không hiệu quả, năng lực quản lý kém của ban giám đốc dẫn đến thua lỗ không có nguồn tiền trả nợ cho ngân hàng và gây ra nợ xấu. Tổng kết một số dự án thất bại điển hình của Vinashin cho thấy khả năng quản lý của ban giám đốc Vinashin như sau:

- Công ty Vận tải viễn dương Vinashin

Công ty Vận tải viễn dương Vinashin VN lines công ty con của Vinashin đầu tư hơn 200 triệu U D khoảng 3.136 tỷ đồng để mua về tới 6 con tàu có tuổi từ 22 đến 26 năm trong số tàu của Công ty này. Hầu như tất cả các con tàu này hiện tại đều không chạy được, do hỏng hóc, do bị bắt giữ tại các cảng trong và ngoài nước.

- Đóng tàu Lash Sông Gianh

Tàu Lash ông Gianh chỉ chạy thử 1 chuyến đầu tiên và cũng là chuyến cuối c ng chở than từ Quảng Ninh vào ài G n. Tổng tiền thu được từ chuyến hàng này chưa tới 1, tỷ, nhưng tiền bỏ ra để chi phí phục vụ cho việc chở đã tới hơn 4 tỷ đồng

bao gồm tiền dầu, phí bảo đảm hàng hải, tàu lai, vật tư, phí tàu kéo lash con, lương


thủy thủ, phí hoa tiêu... . Thời gian hoàn thành chuyến hàng đầu tiên này cũng đạt mức kỷ lục: gần 2 tháng. Từ đó đến nay, nó được neo đậu tại Nhà è - Sài Gòn.

- Mua cổ phần Tổng Công ty bảo hiểm Việt Nam

Với trị giá 1.46 tỷ đồng mua 20,4 triệu cổ phần chiếm 3,56% vốn với giá mua 70 ngàn VND.

- Mua tàu Hoa Sen

Mua tàu Hoa en ngày 15.10.200 từ Italia, chi phí mua tàu 60 triệu Euro tương đương 1.300 tỷ đồng, chạy tuyến ắc Nam, hiện tại dừng hoạt động vì mỗi chuyến chạy lỗ 1,5 tỷ VND. tàu Hoa en đã từng bị thủng đáy trong thời gian khai thác ở Ý, mang về phải sửa chữa, hiện tại đang nằm tại v ng nước thuộc Công ty công nghiệp đóng tàu Cam Ranh. D tàu không chạy mà vẫn phải cho máy nổ, phải có người canh giữ. Mỗi năm phải trả lãi vay gần 0 tỷ đồng.

- Nhà máy điện Diesel Cái Lân

Dự án nhà máy điện diesel có tổng mức đầu tư gần 36 triệu U D. Trong quá trình thực hiện, mặc d trong hợp đồng quy định rõ các thiết bị máy móc phải được mua sắm mới và có xuất xứ từ châu Âu, nhưng ban quản lý đã ký kết với nhà thầu mua sắm nhiều thiết bị đã qua sử dụng, kém chất lượng, trong đó thiết bị chính của nhà máy được tháo dỡ từ một nhà máy điện diesel ở Trung Quốc. au hơn hai năm vận hành từ tháng 4-200 đến 10-200 Nhà máy Cái Lân lỗ hơn 62 tỷ đồng, tổng các khoản nợ không có khả năng thanh toán lên đến 2 ,5 triệu U D và 10 ,5 tỷ đồng.

Thứ tư, Vinashin đã sử dụng vốn sai mục đích:

Vinashin là tập đoàn đóng tàu và sữa chữa tàu biển. Thay vì sử dụng vốn vay để phát triển ngành nghề kinh doanh chính, Vinashin đã quản lý sử dụng vốn lỏng lẻo, sử dụng vốn vay sai mục đích để đầu tư mở rộng quá nhanh, quy mô lớn, dàn trải trên nhiều l nh vực, địa bàn trái với quy hoạch được phê duyệt như điện, thép, tài chính… . Trong đó có những l nh vực không liên quan đến công nghiệp đóng và sữa chữa tàu biển, nhiều l nh vực kém hiệu quả, có nhiều công ty, dự án thua lỗ nặng nề.


Thứ nhất, Vinashin thực hiện dự án xây dựng Nhà máy nhiệt điện ông Hồng đã không lập báo cáo đầu tư trình Thủ tướng Chính phủ cho phép đầu tư công trình nhóm A; quyết định phê duyệt dự án không có trong quy hoạch phát triển ngành điện, không lập hồ sơ thiết kế cơ sở để thực hiện thẩm định, không tổ chức đấu thầu mà chỉ định đơn vị tư vấn lập dự án là Công ty CP Cửu Long, vốn không có giấy phép hoạt động điện lực. Tổng thiệt hại gây ra là 316,5 tỷ đồng.

Thứ hai, Vinashin sử dụng vốn vay với mục đích đóng tàu để đầu tư đất đai và khu công nghiệp. Với đà tăng trưởng trong mơ của những năm 200 trở về trước, Vinashin đã ký hàng loạt các dự án đóng tàu mới trị giá hàng tỷ đô la M . Ở thời điểm này, vận tải biển cũng lãi lớn, một con tàu đưa vào khai thác vài năm là hoàn vốn. Vốn nhiều, trong khi đầu tư vào đóng tàu 10 năm mới có lãi. Thời điểm này, Vinashin táo bạo chuyển một phần vốn vay sang xây hạ tầng khu công nghiệp. Nếu mọi chuyện diễn ra đúng kế hoạch, chỉ sau 4 – 5 năm, từ khoản tiền 1 tỷ đô la M có thể gia tăng giá trị lên 3 lần. Với 2 tỷ đô la M chênh lệch, Vinashin thừa tiền trả nợ gốc đi vay do giá trị đất đai và khu công nghiệp tăng nhanh chóng trong khi số tiền bỏ ra san lấp, xây dựng không lớn. Thế nhưng, khủng hoảng kinh tế năm 200 khiến Vinashin không thể huy động vốn đáp ứng nhu cầu của 200 công ty con đang triển khai những dự án dang dở. Không có tiền nhập vật tư đóng tàu, các dự án hạ tầng “khát vốn”, các công ty con quá yếu không tự nuôi nổi mình. Vinashin lầm vào tình trạng cực kỳ khó khăn từ cuối năm 200 và đến năm 2012 mất khả năng thanh toán.

Thứ năm, môi trường kinh tế không ổn định

Ngoài những nguyên nhân xuất phát từ bản thân Vinashin và Ngân hàng cho vay, còn có nguyên nhân bên ngoài do ảnh hưởng khủng hoảng tài chính, kinh tế thế giới.

Năm 2006, 200 Vinashin vẫn hoạt động tốt, nhận được tới 166 đơn hàng của nước ngoài trị giá lên tới 5 – 6 tỷ đô la M . Nhưng khủng hoảng kinh tế thế giới 2008 –


2009 xảy ra, nhiều hợp đồng bị hủy bỏ gây thiệt hại cho Vinashin. Và điều đó, Vinashin không lường trước được.

Thứ sáu, việc xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ vay còn khó khăn, tốn nhiều thời gian: khi Vinashin mất khă năng thanh toán, ngân hàng cho vay có tài sản tiến hành xử lý tài sản để thu hồi nợ vay. Nhưng công tác xử lý tài sản không đơn giản, vì những lý do sau:

Vinashin là Tổng công ty, tài sản thuộc sở hữu nhà nước nên phải có ý kiến chỉ đạo của Nhà nước làm cho quá trình xử lý kéo dài.

Phần lớn tài sản thế chấp là tàu thủy, phương tiện vận tải nên việc kéo dài thời gian xử lý là giảm giá trị tài sản thế chấp, không thu hồi đủ dư nợ để cho vay.

2.3.3.2 Công ty Cổ Phần Thủy sản Bình An (Bianfishco)

Công ty Cổ Phần Thủy sản ình An được thành lập năm 2005 tại Trà Nóc, Cần Thơ. au hơn 1 năm xây dựng, Bianfishco chính thức đi vào hoạt động với công suất chế biến lên đến 500 tấn cá tra nguyên liệu mỗi ngày, góp phần giải quyết việc làm ổn định cho hơn 5.000 lao động tại địa phương.

Tháng năm 2010, ianfishco chính thức khai trương Viện nghiên cứu Thủy sản ình An. Đây là một viện nghiên cứu thủy sản đầu tiên ở Việt Nam do một tư nhân thành lập. Ngay sau khi khai trương, Viện đã đi vào hoạt động, chủ yếu nghiên cứu: Sản xuất giống, nghiên cứu sản xuất thức ăn đạt tiêu chuẩn, thuốc phòng và trị bệnh, vawcsxin, chế phẩm sinh học, nghiên cứu công nghệ nuôi tròng thủy sản đạt hiệu quả cao…

Tuy nhiên đến năm 2011, hoạt động kinh doanh của Bianfishco diễn ra cầm chừng, vì gặp khó khăn về tài chính do nguồn tín dụng từ ngân hàng thắt chặt, Bianfishco bắt đầu có dấu hiệu mất cân đối tài chính nghiêm trọng. Nguy cơ vỡ nợ của Bianfishco là rất lớn.

Theo thống kê chính thức của tổ công tác ủy ban nhân dân thành phố Cần Thơ, tính đến tháng 2 năm 2012, các khoản nợ của Bianfishco là 1.541 tỷ đồng. Trong đó nợ


các tổ chức tín dụng 1.277 tỷ đồng trong đó dư nợ tại SHB là 63,5 tỷ đồng), nợ tiền bán cá của 41 hộ dân 245 tỷ đồng nhưng đã trả được thêm trên 16 tỷ đồng và nợ bảo hiểm xã hội 3 tỷ đồng. Ngoài ra, Bianfishco còn nợ 10 doanh nghiệp khác hơn 2 , tỷ đồng. Tổng các khoản nợ của Bianfishco là 1.275 tỷ đồng trong khi doanh thu năm 2009 là 837 tỷ đồng, năm 2010 là 1.163 tỷ đồng (Nguyễn Thị Anh Đào, 2011 .

Từ thực tế và tìm hiểu hoạt động của công ty cũng như công tác thẩm định cho vay tại ngân hàng, nguyên nhân gây ra những khoản nợ xấu của Bianfishco là:

Thứ nhất, hệ thống quản trị rủi ro chưa chặt chẽ

Tính đến tháng 2/2012, dư nợ cho vay của Bianfishco tại ngân hàng là 63.9 tỷ đồng. Ngoài khoản dư nợ này, ngân hàng còn góp vốn mua 5 triệu cổ phần với giá

16.000 đồng/cổ phiếu, tổng trị giá 80 tỷ đồng tương đương 10% vốn điều lệ của Bianfishco), một khoản mua có kỳ hạn 25 triệu cổ phiếu Bianfishco trị giá 125 tỷ đồng, Một khoản ủy thác đầu tư khác ngân hàng mua triệu cổ phiếu Bianfishco, trị giá 62 tỷ đồng. Như vậy, ngân hàng đã đầu tư vào Bianfishco trị giá 262 tỷ đồng và một khoản vay trị giá 63.9 tỷ đồng. Tuy ngân hàng bỏ nhiều tài sản việc đầu tư và cho vay Bianfishco nhưng công tác quản trị rủi ro khách hàng này tại ngân hàng còn nhiều sơ sót. Cụ thể, dựa vào uy tín và vỏ bọc bà Diệu Hiền – Tổng giám đốc Bianfishco đã tạo ra, các ngân hàng đã cấp tín dụng vượt mức tối đa của ianfishco vượt quá doanh thu của Bianfishco) nhưng ngân hàng vẫn tiến hành cho vay. Khi thực hiện công tác cho vay lúc này, ngân hàng đã bỏ qua việc thẩm định năng lực tài chính cũng như khả năng trả nợ của khách hàng.

Hơn nữa, công tác giám sát sau cho vay cũng không được thực hiện nghiêm túc và theo sát khách hàng vì ngành nghề kinh doanh chính của Bianfishco là sản xuất kinh doanh và chế biến thủy hải sản nhưng khách hàng lại sử dụng vốn vay vào các mục đích khác như đầu tư vào bất động sản, khu du lịch sinh thái, viện nghiên cứu nước uống Collagen…

Thứ hai, năng lực kinh doanh kém


Nếu nhìn vào những hoạt động bên ngoài, Bianfishco quả là một trong những doanh nghiệp được đầu tư và phát triển bài bản. Năm 2005, Công ty đã đầu tư một nhà máy chế biến có quy mô lớn nhất đồng bằng sông Cửu Long lúc đó. Nhà máy có công suất chế biến 500 tấn cá tra nguyên liệu/ngày, áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế nghiêm ngặt về quản lý chất lượng.

Đầu năm 200 , công ty này c n đầu tư lắp đặt hệ thống diệt khuẩn Ipura của M (Bianfishco là doanh nghiệp đầu tiên của Việt Nam lắp đặt hệ thống này). Cụ thể, thay vì tập trung làm cá phi-lê thuần túy, Công ty sẽ chú trọng đến l nh vực gia tăng các giá trị của cá tra thông qua chế biến sâu bằng công nghệ tiên tiến. Trong khi đó, nếu nhìn vào những doanh nghiệp chế biến cá tra đầu ngành khác tại Việt Nam như H ng Vương, Agifish, V nh Hoàn thì chế biến cá phi-lê vẫn là chủ đạo.

Để hiện thực hóa chiến lược này, Bianfishco đã đầu tư hàng trăm tỉ đồng xây dựng cơ sở vật chất, thiết bị nhà xưởng. Chẳng hạn, Công ty đầu tư 200 tỉ đồng để xây dựng Viện Nghiên cứu Thủy sản Bình An tại Khu Công nghiệp Trà Nóc II với tổng diện tích xây dựng hơn .000 m2 Viện chính thức được khánh thành vào tháng 7/2010). Tháng 3/2010, kho lạnh công suất 10.000 tấn cũng đã được hoàn thành và đưa vào hoạt động. Cũng trong năm 2010, doanh nghiệp này đã đầu tư một nhà máy sản phẩm giá trị gia tăng có công suất 3.000 tấn sản phẩm/năm. Mới đây nhất là Nhà máy sản xuất nước uống Collagen Bình An với tổng vốn đầu tư 10 triệu U D hơn 200 tỉ đồng).

Tuy nhiên, đầu tư tràn lan là nguyên nhân gây nên khủng hoảng nợ nần tại

ianfishco. “Chi phí lãi vay sẽ là một gánh nặng nếu doanh nghiệp sử dụng đồng vốn đầu tư không đúng hướng. Điều này khiến lợi nhuận trong đầu tư kinh doanh giảm.

Trong đầu tư kinh doanh chế biến thủy sản, với cách đầu tư như hiện nay của phần lớn doanh nghiệp (30% vốn tự có, 70% vốn vay), nếu kinh doanh khó khăn, chỉ trong v ng 5 năm, doanh nghiệp sẽ mất hết vốn do phải trả lãi cho ngân hàng.

Xem tất cả 120 trang.

Ngày đăng: 13/12/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí