Kiến Nghị Đối Với Ngân Hàng Nhà Nước


Cuộc khủng hoảng thứ hai xảy ra do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính

- tiền tệ khu vực. Do tác động của cuộc khủng hoảng, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đang ở mức cao trong thời kỳ 1995-1 , đến năm 1 chỉ tăng 5, 6%, năm 1999 chỉ tăng 4, %. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đăng ký, nếu năm 1 5 đạt trên 6,9 tỷ U D, năm 1 6 đạt gần 10,2 tỷ U D, năm 1 c n gần 5,6 tỷ U D, năm 1 còn gần 5,1 tỷ U D, năm 1 c n gần 2,6 tỷ USD. Lạm phát nếu năm 1 6 ở mức 4,5%, năm 1 ở mức 3,6%, năm 1 lên mức 9,2%. Giá USD nếu năm 1 5 giảm 0,6%, 1 6 tăng 1,2%, năm 1 tăng 14,2%, năm 1 tăng ,6%,... Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu năm 1 6 ở mức 33,2%, năm 1 ở mức 26,6%, đến năm 1 chỉ còn 1,9%.

Cuộc khủng hoảng thứ ba cuộc bắt đầu từ năm 200 có những ảnh hưởng to lớn đến nền kinh tế và kéo dài từ năm 200 đến nay. Tăng trưởng kinh tế GDP liên lục giảm từ 6,1 % năm 200 xuống 5,4% năm 2013. Nhiều ngành công nghiệp chủ chốt như khai khoáng, chế tạo sắt thép lao đao, bất động đóng băng…

Các cuộc khủng hoảng này thường kéo dài khoảng 10 năm. Như vậy, quá trình đổi mới cơ chế, chính sách để ứng biến với khủng hoảng kinh tế là rất chậm. Chính phủ cần:

Đưa ra những chính sách hỗ trợ kịp thời các ngành sản xuất kinh doanh, công nghiệp và dịch vụ.

Xây dựng đội ngũ chuyên gia chất lượng cao phục vụ cho các hoạt động phân tích, dự báo kinh tế để đưa ra những cơ chế, chính sách kịp thời với những thay đổi của môi trường kinh doanh.

Rà soát các chính sách và đổi mới theo xu hướng phát triển kinh tế của

thời đại.

- Cải cách cơ chế pháp lý trong việc xử lý tài sản đảm bảo: Chính phủ cần ban hành cơ chế cho phép và khuyến khích các hoạt động thu hồi nợ ngoài tòa án, linh hoạt trong việc chi hoa hồng, thu hồi mua bán và khai thác tài sản xiết nợ, tránh việc

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 120 trang tài liệu này.


hình sự hóa các hoạt động này. Tạo điều kiện pháp lý tốt cho các công ty xử lý nợ có thể chủ động phát mại tài sản và tự chịu trách nhiệm về hoạt động của mình, nhất là các cơ chế về đấu giá, phát mại các tài sản cầm cố, thế chấp, chuyển nhượng quyền sử dụng đất, phát mại các tài sản thuộc sở hữu của doanh nghiệp nhà nước.

Giải pháp hạn chế và xử lý nợ xấu tại Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn - Hà Nội - 12

- Tăng cường tính hiệu lực và thực thi của hệ thống pháp luật: từ trước tới nay, hệ thống pháp luật Việt Nam vẫn được đánh giá là kém cả về tính minh bạch và tính thực thi, hiệu lực. Sự kém hiệu lực, kém thực thi của hệ thống pháp luật Việt Nam dẫn đến việc xử lý các tài sản bảo đảm tiền vay, tài sản cầm cố thế chấp là vô cùng khó khăn và phức tạp. Tình trạng này nếu kéo dài dẫn đến các khoản nợ khó đ i, nợ xấu cứ tích tụ tại các NHTM, gây khó khăn không nhỏ cho hoạt động của các ngân hàng. Do đó, Chính phủ cần ban hành cơ chế đặc biệt, cho phép ngân hàng thương mại hoàn thiện các thủ tục pháp lý đối với các tài sản thế chấp, nhất là bất động sản để thu hồi mua bán và khai thác tài sản xiết nợ, tránh việc hình sự hóa của các cơ quan bảo vệ pháp luật vào các hoạt động này. Chính sách, quy chế phải rõ ràng minh bạch. Sửa đổi Luật Đất đai, Luật phá sản doanh nghiệp cần đi liền đồng bộ với quy định, hướng dẫn chi tiết. Tình trạng chậm trễ trong cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cũng là nguyên nhân trực tiếp làm cho khoản nợ của ngân hàng có tính lưu hoạt chậm không có khả năng thanh lý. Luật phá sản ra đời hơn 10 năm nhưng hầu như rất ít doanh nghiệp Việt Nam có thể phá sản. Điều đó không phản ánh rằng mọi doanh nghiệp ở Việt Nam đều là khoẻ mạnh mà phản ánh rằng Luật phá sản doanh nghiệp ở Việt Nam không có tính thực tiễn. Nhiều doanh nghiệp lẽ ra sẽ phá sản nhưng không thực hiện được và vì vậy mà kết quả là các khoản nợ xấu vẫn còn trên tài khoản ngân hàng.

- Đẩy mạnh cải cách khu vực ngân hàng

Tiếp tục cải cách khu vực ngân hàng, bao gồm cả ngân hàng nhà nước và các ngân hàng thương mại là điều kiện duy trì tăng trưởng nên kinh tế và hội nhập quốc tế. Thúc đẩy quá trình cổ phần hóa ngân hàng, cho phép nhà đầu tư nước ngoài tham giá khu vực ngân hàng nhằm tăng cường năng lực tài chính, tăng cường quản trị, điều hành


của các ngân hàng thương mại hiện nay. Đây là giải pháp lầu dài và bền vững nhằm ngắn chặn nguy cơ gia tăng nợ xấu.

Một trong những yếu kém về tài chính của các ngân hàng thương mại trong thời gian qua là quy mô vốn tự có nhỏ. Cải cách hệ thống ngân hàng thương mại bằng các biện pháp tăng vốn đi đôi với xử lý nợ xấu, nâng cao năng lực quản trị, điều hành, quản lý tín dụng và rủi ro. Mặc d các ngân hàng thương mại đã có nhiều nỗ lực, cố gắng trong việc nâng cao hiệu quả kinh doanh, tăng khả năng sinh lợi… song vẫn chỉ đáp ứng phần vốn tăng thêm rất nhỏ, đây thực sự là hạn chế lớn trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.

Để tái cơ cấu, tái cấu trúc hoạt động ngân hàng thương mại cần có sự hỗ trợ tài chính từ phía Chính phủ thông qua cấp bổ sung vốn điều lệ để tăng vốn tự có đạt hệ số CAR theo chuẩn mức quốc tế, nhà nước cũng cần cho phép cổ phần hóa, cho phép phát hành trái phiếu đặc biệt để thu hút vốn, đổi mới phương thức quản lý, quản trị kinh doanh.

- Bên cạnh đó, Chính phủ cần gắn cải cách ngân hàng với cải cách kinh tế toàn diện. Việc cải cách khu vực ngân hàng khó có thể thành công nếu các khu vực khác của nền kinh tế không được đổi mới một cách đồng bộ. Cải cách ngân hàng cần phải tiến hành song song với tiến trình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế v mô, cải cách bộ máy quản lý n.hà nước và đặc biệt là phải gắn với cải cách doanh nghiệp. Cải cách các doanh nghiệp giúp hệ thống này sử dụng tốt nguồn vốn đầu tư từ ngân hàng, đảm bảo sự tăng trưởng ổn định và khả năng chi trả cho ngân hàng.

3.3.2 Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà Nước

- Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thanh tra, giám sát của ngân hàng nhà nước: hiện nay, NHNN chưa có một qui định cụ thể về tiêu chuẩn xây dựng quản trị rủi ro cho các ngân hàng thương mại. Để quản lý và giám sát các ngân hàng thương mại hiệu quả, NHNN cần xây dựng các tiêu chí đánh giá quy trình quản trị rủi ro chung cho từng nhóm các ngân hàng thương mại, tùy theo quy mô của các ngân


hàng thương mại. Bên cạnh đó, NHNN cần thực hiện thanh tra, giám sát thường xuyên công tác quản rị rủi ro tín dụng của các ngân hàng thương mại, đặc biệt công tác phân loại nợ và trích lập dự phòng.

- Chống cạnh tranh không lành mạnh: các hành vi cạnh tranh không lành mạnh của ngân hàng bao gồm: khuyến mãi bất hợp pháp; thông tin sai sự thật làm tổn hại đến lợi ích của tổ chức tín dụng khác; đầu cơ lũng đoạn thị trường tiền tệ, vàng, ngoại tệ. Các hành vi bất hợp pháp này của một tổ chức tín dụng đều gây những ảnh hưởng nhất định đối với một hoặc nhiều tổ chức tín dụng khác và có thể ảnh hưởng đến toàn bộ hệ thống ngân hàng. Vì vậy, NHNN cần có những qui định cụ thể nhằm xây dựng môi trường cạnh tranh lành mạnh, công bằng và bình đẳng thực sự giữa các tổ chức tín dụng đang hoạt động tại Việt Nam. Bên cạnh đó, NHHH cần tăng cường kiểm tra, kiểm soát hoạt động của các ngân hàng thương mại, đảm bảo sự phát triển bền vững, an toàn trên cơ sở cạnh tranh lành mạnh giữa các ngân hàng.

- Ứng dụng các nguyên tắc cơ bản về giám sát ngân hàng của ủy ban Basel: Việt Nam không nằm trong danh sách các quốc gia thành viên của Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng, tức không chịu áp lực phải vận dụng các quy định an toàn của các hiệp ước này, song việc vận dụng các hiệp ước Basel trong hoạt động quản trị ngân hàng là vấn đề hết sức ý ngh a và cần thiết đối với hệ thống ngân hàng Việt Nam. Với việc tuân thủ các chuẩn mực quốc tế, hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam sẽ ngày càng lành mạnh hơn, khả năng cạnh tranh của các ngân hàng sẽ ngày càng được nâng cao hơn và tính an toàn hoạt động cũng ngày càng đảm bảo hơn. Vì vậy, NHNN cần đưa việc ứng dụng các nguyên tắc của ủy ban Basel vào hệ thống quản trị rủi ro ngân hàng là một qui định bắt buộc.

- Nâng cao vai trò của CIC và các tổ chức xếp hạng tín nhiệm độc lập: Để các ngân hàng Việt Nam có thêm cơ sở để ra quyết định tín dụng, bên cạnh kết quả phân tích tín dụng và kết quả xếp hạng tín nhiệm nội bộ của mình, rất cần có thêm thông tin và kết quả xếp hạng tín nhiệm của CIC và các công ty xếp hạng tín nhiệm độc


lập. Mặc dù Trung tâm thông tin tín dụng (CIC) của Ngân hàng Nhà nước ngày càng phát triển mạnh mẽ và đóng vai tr quan trọng trong cung cấp thông tin về khách hàng, thực hiện phân tích, xếp loại tín dụng doanh nghiệp, cung cấp các thông tin cảnh báo…, góp phần quan trọng cho sự phát triển của ngành ngân hàng Việt Nam vì mục tiêu an toàn, hiệu quả nhưng những đ i hỏi về thông tin của các ngân hàng vẫn chưa được đáp ứng một cách đáng tin cậy, nhanh chóng và kịp thời.

- Phát triển thị trường mua bán nợ: thông qua việc hoàn chỉnh cơ chế mua bán nợ giữa các tổ chức tín dụng và ngân hàng nhà nước để phát triển thị trường mua bán nợ, góp phần mở rộng khả năng cho vay của các ngân hàng. Ngân hàng nhà nước nên khuyến khích thành lập các AMC tư nhân sở hữu độc lập với ngân hàng sẽ tạo tính cạnh tranh trên thị trường mua bán nợ. Phải xem nợ xấu là một món hàng và việc định nợ xấu phải được thông qua thị trường. Thị trường mua bán nợ sơ cấp: giữa ngân hàng chủ nợ và các nhà đầu tư xử lý nợ xấu. au đó là hình thành thị trường mua bán nợ thứ cấp, đó là việc mua bán nợ xấu giữa các nhà đầu tư tư nhân với nhà nước. Để thị trường hoạt động hiệu quả cần có các tiêu chí để kiểm soát, quản trị các rủi ro, và điều quan trọng là hiệu quả kinh tế phải đặt lên hàng đầu. Đối với các khoản nợ có giá trị quá lớn có thể kêu gọi các nhà đầu tư nước ngoài mua lại.

- Nghiên cứu và phát triển các công cụ bảo hiểm tín dụng như quyền chọn và hoán đổi tín dụng: đây là các công cụ của một thị trường tài chính phát triển cao nhằm giúp các NHTM phòng ngừa và bảo hiểm rủi ro tín dụng, san sẻ rủi ro và tạo tính linh hoạt trong quản lý danh mục các khoản cho vay của ngân hàng.


TÓM TẮT CHƯƠNG 3‌

Trên cơ sở hệ thống lý thuyết ở Chương 1, kết quả đánh giá thực trạng ở Chương 2, trong Chương 3, luận văn đã đưa ra những quan điểm, định hướng và hệ thống các nhóm giải pháp để hạn chế và xử lý nợ xấu tại SHB, cụ thể là:

- Nhóm giải pháp nhằm hạn chế nợ xấu đối với nhân tố từ phía khách hàng đi vay SHB: Thay đổi phương thức cấp tín dụng để có thể kiểm soát việc sử dụng vốn vay đúng mục đích trong hợp đồng tín dụng; nâng cao tính chặt chẽ trong việc thu thập số liệu tài chính của khách hàng; các giải pháp cần thiết khi khách hàng lừa đảo, thiếu thiện chí trả nợ.

- Nhóm giải pháp nhằm hạn chế nợ xấu đối với nhân tố tự bản thân SHB: nâng cao công tác kiểm tra, giám sát khách hàng; nâng cao việc xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; hoàn thiện và nâng cao công tác quản trị rủi ro.

- Nhóm giải pháp nhằm hạn chế nợ xấu đối với nhân tố ngân hàng hậu tăng trưởng nóng.

- Nhóm giải pháp nâng cao chất lượng xử lý nợ xấu tại SHB: tăng cường trích lập dự phòng rủi ro; đánh giá lại khoản vay và cơ cấu nợ; chứng khoán hóa các khoản nợ; bán nợ cho công ty Quản Lý Tài Sản (VAMC).

- Một số kiến nghị đối với ngân hàng nhà nước và Chính phủ.


KẾT LUẬN‌

Nợ xấu trong hoạt động kinh doanh thể hiện chất lượng tín dụng của một ngân hàng. Dù nhiều hay ít, nợ xấu vẫn luôn tồn tại và không thể nào tránh khỏi. Trong giai đoạn từ năm 200 đến năm 2013, nợ xấu tại SHB có những lúc tăng cao lên đến 8,8% nhưng cũng có lúc chỉ có 1,4%. Nhưng d thế nào đi nữa, SHB vẫn luôn tìm cách hạn chế và xử lý nợ xấu tối đa đến mức có thể. Đề tài của luận văn đã góp phần giải quyết những lý luận và thực tiễn về hạn chế và xử lý nợ xấu, cụ thể là:

- Hệ thống hóa và làm sáng tỏ thêm những lý luận cơ bản về nợ xấu. Bên cạnh đó, luận văn cũng đã đưa ra các nghiên cứu nợ xấu trên thế giới và tại Việt Nam, từ đó rút ra mô hình áp dụng phù hợp cho đề tài.

- Phân tích, tìm hiểu hoạt động hạn chế và xử lý nợ xấu của H . Đồng thời, luận văn cũng tiến hành đánh giá thực trạng nợ xấu của H , thông qua phương pháp nghiên cứu định tính với phương pháp thống kê mô tả. Từ đó rút ra những kết quả đạt được, những điểm còn hạn chế và nguyên nhân dẫn đến những hạn chế làm cơ sở khoa học thực tiễn cho hệ thống giải pháp nhằm hạn chế và xử lý tại SHB.

- Đề xuất những giải pháp hạn chế và xử lý nợ xấu của SHB: giải pháp đối với khách hàng đi vay; giải pháp đối với ngân hàng cho vay; giải pháp đối với nhân tố ngân hàng hậu tăng trưởng nóng; giải pháp xử lý nợ xấu tại SHB.

Với các mục tiêu nghiên cứu đã đạt được ở trên, luận văn đã có những đóng góp về mặt lý thuyết cũng như thực tiễn, giúp SHB thấy được những hạn chế, yếu kém và đưa ra các giải pháp nhằm hạn chế và xử lý nợ xấu tại SHB.

Tuy nhiên, đề tài cũng không tránh khỏi những hạn chế nhất định, là tiền đề cho các nghiên cứu tiếp theo:


- Nghiên cứu này chỉ xem xét bốn yếu tố tác động đến nợ xấu, có thể có các yếu tố khác nữa có tác động đến nợ xấu trong ngành ngân hàng.

- Nghiên cứu này chỉ điều tra các chuyên viên hỗ trợ của ngân hàng TMCP Sài Gòn – Hà Nội (SHB) nên hạn chế tính tổng quát hóa của đề tài. Các nghiên cứu tương lai có thể tăng quy mô mẫu, đối tượng khảo sát, để đạt được tính tổng quát hóa cao.

Mặc d đã hết sức cố gắng, được sự hướng dẫn tận tình của người hướng dẫn khoa học PGS, TS. Nguyễn Quang Thu, song luận văn c n những khiếm khuyết nhất định, rất mong được sự đóng góp ý kiến của quý Thầy, Cô trong Hội đồng và những ai quan tâm để luận văn hoàn chỉnh hơn.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 13/12/2023