Đa Dạng Hoá Danh Mục Đầu Tư Tín Dụng


chính phủ có thể cho phép NHNT tiếp tục hạch toán nợ vào chi phí hoạt động. Song để thực hiện cách thứ hai, đòi hỏi NHNT phải tiếp tục nỗ lực cao để hoạt động kinh doanh có lãi lớn để có thể hạch toán vào chi phí mà vẫn duy trì được lợi nhuận.

Thu nợ trực tiếp từ khách hàng:

Thu nợ trực tiếp từ khách hàng là biện pháp cơ bản để giải quyết tận gốc các khoản nợ tồn đọng, tuy nhiên biện pháp này chỉ có hiệu quả đối với các doanh nghiệp còn hoạt động và còn khả năng trả nợ. Cách nhanh chóng nhất để thu hồi nợ vay là NHNT miễn giảm một phần nợ lãi cho khách hàng và động viên doanh nghiệp bán một phần tài sản không thật cần thiết để trả nợ. Cách thứ hai, công phu hơn là Ngân hàng lập lại lịch trả nợ cho doanh nghiệp, cùng doanh nghiệp xem lại kế hoạch kinh doanh, dùng các biện pháp mềm mỏng “nuôi con nợ để thu nợ”, đồng thời hạn bớt lãi suất, giảm phí dịch vụ... để doanh nghiệp có thể phục hồi việc kinh doanh và trả nợ cho Ngân hàng. Trong trường hợp này, NHNT cần phối hợp với doanh nghiệp để tìm ra nguyên nhân dẫn đến khó khăn của doanh nghiệp, từ đó có hướng khai thác thích hợp, chẳng hạn doanh nghiệp gặp khó khăn trong khâu tiêu thụ sản phẩm, cần có các biện pháp giúp doanh nghiệp cắt giảm chi phí, giải phóng hàng tồn kho, cải tiến mẫu mã, chất lượng sản phẩm, thay đổi phương thức bán hàng... Doanh nghiệp khó khăn do vốn bị chiếm dụng quá nhiều thì hướng tháo gỡ cần bắt đầu từ các đối tác mua hàng chịu của doanh nghiệp... Nguyên nhân dẫn đến rủi ro cho doanh nghiệp rất đa dạng bởi vậy phương pháp khai thác, khắc phục áp dụng đối với từng doanh nghiệp cũng khác nhau, NHNT cần phối hợp với khách hàng để xây dựng một phương án thu nợ chặt chẽ, xác định chính xác các công việc khách hàng phải làm, các kết quả cần đạt được cũng như mốc thời gian đạt được kết quả đó.

Thu hồi nợ từ việc xử lý tài sản

Hiện nay, thị trường bất động sản đang biến động theo hướng có lợi


cho Ngân hàng, thêm vào đó, sự ra đời của thông tư liên tịch số 03/2001/TTLT-NHNN –BTP-BCA-BTC-TCĐC cũng đã tạo điều kiện thuận lợi cho các Ngân hàng bán tài sản đảm bảo để thu hồi nợ vay, bởi vậy Ngân hàng nên tranh thủ bán những tài sản đảm bảo mặc dù giá bán chưa thể bù đắp khoản cho vay để nhanh chóng thu hồi vốn, tránh trường hợp tài sản bị xuống cấp, hư hỏng, lấn chiếm...

Nhờ đến sự can thiệp của pháp luật để thu hồi nợ

Nhờ đến sự can thiệp của toà án là phương thức không Ngân hàng nào muốn thực hiện, song là một cơ quan kinh doanh, NHNT cần thiết kiên quyết khởi kiện ra toà án đối với các con nợ không thiện chí hợp tác với Ngân hàng để có thể nhanh chóng thu hồi nợ.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 101 trang tài liệu này.

Tăng cường tích luỹ dự phòng rủi ro

Trong điều kiện bán tài sản đảm bảo và thu nợ của khách hàng còn nhiều khó khăn như hiện nay thì quỹ dự phòng rủi ro là nguồn quan trọng để xử lý nợ tồn đọng.

Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng trung dài hạn tại Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam - 9

Với các khoản nợ đã xử lý bằng quỹ dự phòng, Ngân hàng cần có kế hoạch theo dõi, tiếp tục thu hồi nợ nếu có thể để làm tăng nguồn thu cho Ngân hàng.

3.2.2. Tăng cường vốn tự có

Trong hoạt động Ngân hàng, vốn tự có được coi là “tấm đệm” để phòng chống rủi ro. Hơn nữa hiện nay, ở NHNT quỹ dự phòng rủi ro được thiết lập trên cơ sở kết quả tài kinh doanh của năm tài chính cho phép, do vậy NHNT hoạt động càng hiệu quả thì nguồn tài chính trích dự phòng ngày càng nhiều. Muốn vậy, NHNT cần phải bỏ vốn nhiều hơn nữa vào các hoạt động có mức sinh lời cao như tín dụng, góp vốn liên doanh, mua cổ phần, kinh doanh ngoại tệ, đầu tư ra nước ngoài, tận thu các khoản cho vay chưa thu được. Để làm được điều này thì trước tiên NHNT cần phải có nguồn lực tài chính mạnh, thể hiện trước tiên là ở nguồn vốn tự có.


NHNT trải qua nhiều lần tăng vốn tự có, hiện nay có vốn tự có là 9014 tỷ đồng, một con số khá cao trong hệ thống Ngân hàng giai đoạn hiện nay. NHNT cũng là Ngân hàng đầu tiền đạt tỷ lệ an toàn vốn là 8,5%, đạt tiêu chuẩn theo quy định 457/2005/QĐ-NHNN. Tuy nhiên với tỷ lệ nợ quá hạn và nợ xấu vẫn còn ở mức cao như hiện nay, đặc biệt nếu được đánh giá theo tiêu chuẩn quốc tế thì những tỷ lệ này còn cao hơn con số hiện nay, trong khi thời gian tới các NHTM VN nói chung và NHNT nói riêng sẽ vấp phải sự cạnh tranh từ những Ngân hàng nước ngoài với tiềm lực vốn vô cùng lớn, do đó NHNT vẫn phải tiếp tục tăng vốn tự có để nâng cao khả năng cạnh tranh, đồng thời nâng cao khả năng chống chịu với rủi ro.

Về nguyên tắc, vốn tự có phải được bổ sung dần dần từ lợi nhuận song nếu theo cách đó thì sẽ phải mất rất nhiều thời gian thì NHNT mới có thể tăng được lượng vốn đáng kể. Theo kế hoạch gần đây nhất của NHNN và NHNT thì sẽ tiến hành cổ phần hoá NHNT, đây có thể coi là một phương pháp tối ưu nhằm tăng cường vốn tự có của NHNT trong thời gian tới.

3.2.3. Đa dạng hoá danh mục đầu tư tín dụng

Như đã phân tích ở chương 2, hoạt động tín dụng trung dài hạn ở NHNT còn tập trung và thiếu định hướng. Để khắc phục tình trạng, NHNT cần xây dựng một danh mục tín dụng cụ thể trong đó có phân bổ chỉ tiêu tín dụng cho từng lĩnh vực để chỉ đạo cho các cán bộ tín dụng. Chẳng hạn như NHNT tính toán thấy dư nợ cho vay đối với ngành xây dựng cơ sở hạ tầng ở NHNT hiện đang quá chỉ tiêu dự định, Ngân hàng sẽ chỉ thị cho cán bộ tín dụng ngừng cho vay đối với ngành này, trừ trường hợp dự án xin vay đặc biệt tốt, làm như vậy sẽ tránh được tình trạng cho vay còn thiếu định hướng như hiện nay.

Danh mục tín dụng trung dài hạn tại NHNT nên mở rộng thêm các lĩnh vực công nghiệp nhẹ như dệt may, da giày, hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu mà Việt Nam hiện đang có triển vọng trên thị trường quốc tế; Các lĩnh vực


công nghiệp nặng như cho vay với các doanh nghiệp ở khu công nghệ cao, khu chế xuất... Để thực hiện đa dạng hoá, Ngân hàng cần có chính sách khách hàng linh hoạt, mềm dẻo, phục vụ khách hàng tốt ở tất cả loại dịch vụ, đồng thời không ngừng nâng cao uy tín của Ngân hàng trong khu vực cũng như trên thế giới để các khách hàng đều cảm thấy uy tín của họ cũng tăng lên khi có giao dịch với NHNT.

3.2.4. Chú trọng phát triển nguồn nhân lực

Cán bộ tín dụng là người trực tiếp tham gia vào quá trình cho vay ngay từ khâu đầu tiên cho đến khâu cuối cùng, do đó cán bộ tín dụng đóng một vai trò vô cùng quan trọng đến chất lượng các khoản cho vay.

Một cán bộ tín dụng tốt đòi hỏi phải có các phẩm chất sau: có kiến thức chuyên môn về kinh tế, Ngân hàng, có khả năng phân tích tài chính tốt, tư cách đạo đức tốt và giỏi giao tiếp. Ngoài ra, cán bộ tín dụng còn phải am hiểu các kiến thức về thị trường, pháp luật, có trực giác nhạy bén, và đặc biệt, cán bộ tín dụng chuyên cho vay các dự án trung dài hạn phải có những hiểu biết nhất định về lĩnh vực kỹ thuật mà Ngân hàng đầu tư.

Vì vậy, NHNT VN cần chú trọng đến việc phát triển nguồn nhân lực, ngay từ khâu tuyển dụng đến khâu bố trí, đề bạt cán bộ. Việc tuyển dụng cán bộ tín dụng nên có những tiêu chuẩn riêng khác với việc tuyển dụng cán bộ nghiệp vụ khác trong đó cần coi trọng các yêu cầu về trình độ chuyên môn, hiểu biết kiến thức về thị trường, pháp luật và các kiến thức khác, có đạo đức nghề nghiệp tốt… Sau đó trong quá trình làm việc cần phải thường xuyên tổ chức đào tạo nâng cao trình độ, cập nhật kiến thức cho cán bộ tín dụng, đưa cán bộ tín dụng ra nước ngoài để học tập, nâng cao trình độ. Cán bộ tín dụng có triển vọng cần được cử đi học thêm về quản lý để giúp hoạt động tín dụng tại NHNT hiệu quả và an toàn hơn trong tương lai.

3.2.5. Thẩm định tốt trước khi cho vay

Nâng cao chất lượng thông tin phục vụ cho công tác thẩm định


Thẩm định dự án trước khi cho vay là giải pháp tốt nhất có thể loại trừ tận gốc rủi ro. Khó khăn lớn nhất trong quá trình thẩm định ở NHNT là thiếu thông tin. Trong thời gian tới, NHNT nên thu thập và lưu trữ thông tin thành kho dữ liệu trong đó tập hợp thông tin thành các lĩnh vực kinh tế khác nhau. Nếu phòng thông tin có thể cung cấp được các thông tin một cách chi tiết và cập nhật thì các rủi ro trong cho vay sẽ được hạn chế rất nhiều.

Thẩm định khách hàng vay vốn

Do cho vay trung dài hạn có những đặc điểm rất khác với cho vay ngắn hạn nên việc thẩm định khách hàng cũng cần tập trung vào các yếu tố đặc trưng riêng. Yếu tố cần quan tâm đặc biệt ở đây là “chiều sâu” của doanh nghiệp. “Chiều sâu” của thực trạng tài chính không phải là các khả năng thanh toán hay hệ số vòng quay mà là các hệ số tự tài trợ, khả năng tự trả nợ đến hạn, tỷ số tài trợ tài sản cố định, khả năng sinh lời ROA, ROE, ROS... Trong một khoảng thời gian nhất định, “chiều sâu” của bộ máy quản lý là năng lực và tình trạng sức khoẻ của người điều hành, là triển vọng của lớp cán bộ kế cận...

Do vậy, từng nội dung sau phải đề cập khi thẩm định:

(1) Năng lực tạo lợi nhuận từ phía người vay. Bao gồm các yếu tố phải thẩm định:

- Năng lực pháp lý: trong tín dụng trung dài hạn, khách hàng chủ yếu là các tổ chức kinh tế, do đó khi thẩm định khách hàng trước tiên Ngân hàng cần xem xét khách hàng là doanh nghiệp có tư cách pháp nhân, tức là phải có quyết định thành lập của cấp có thẩm quyền, có giấy phép kinh doanh, có tài sản riêng và được tham gia các giao dịch kinh tế ...

- Năng lực quản trị gồm: kiến thức, kinh nghiệm, tiến triển trong tương lai, lợi nhuận và sự lập lại của lợi nhuận, sự gia tăng vốn tự có.

- Các yếu tố ảnh hưởng đến lượng hàng hoá tiêu thụ, giá bán, giá thành và chi phí là những yếu tố căn bản quyết định lợi nhuận tạo ra của


doanh nghiệp. Nó bao gồm: chất lượng hàng hoá, địa điểm doanh nghiệp, chất lượng cạnh tranh, khả năng khai thác, giá thành nguyên liệu, thị trường tiêu thụ sản phẩm.

(2) Năng lực tài chính của khách hàng, bao gồm các yếu tố phải thẩm định mang tính tuyệt đối về nguồn vốn kinh doanh, nợ phải trả, phải thu, tài sản lưu động... Cần thiết phải xem xét đến các chỉ tiêu tương đối như: Hệ số tài trợ, khả năng thanh toán hiện thời, khả năng thanh toán nhanh, khả năng thanh toán lãi vay tức là chỉ số đo lường mức doanh lợi phát sinh do sử dụng vốn nhằm khả năng trả lại cho chủ nợ...

Thẩm định tính hiệu quả và tính khả thi của dự án

Trong cho vay trung dài hạn, nguồn trả nợ chủ yếu sẽ là từ lợi nhuận thu được từ dự án, do vậy, việc thẩm định hiệu quả và tính khả thi của các dự án phải được quan tâm hàng đầu. Do đó, Ngân hàng cần phải thẩm định kỹ dự án kinh doanh của khách hàng. Nội dung thẩm định bao gồm:

- Thẩm định tư cách pháp lý: để vay được vốn của Ngân hàng, trước hết hồ sơ dự án phải phù hợp với đường lối, chính sách của nhà nước, phải có đủ giấy phép đầu tư, xây dựng của các cấp có thẩm quyền.

- Thẩm định về phương diện thị trường: Thị trường là nơi mà các doanh nghiệp sẽ cung ứng sản phẩm của mình, việc khách hàng của Ngân hàng có tiêu thụ được không là do sản phẩm của khách hàng có phù hợp với thị trường không, khả năng mở rộng sản xuất kinh doanh cũng trên cơ sở nhu cầu của thị trường đối với sản phẩm đó có lâu dài và có lớn không. Do đó, Ngân hàng cần nghiên cứu thị trường trong dự án đầu tư: nắm bắt nhu cầu hiện tại, dự báo tương lai, phân tích khả năng cạnh tranh của sản phẩm... Ngoài ra, Ngân hàng cũng cần quan tâm đến thị trường nguyên vật liệu đầu vào để đảm bảo tính ổn định của sản xuất.

- Thẩm định phương diện kỹ thuật – công nghệ: kỹ thuật – công nghệ hợp lý có tác dụng rất to lớn trong việc tiết kiệm nguồn lực, nâng cao năng


xuất lao động, nâng cao hiệu quả sản xuất, chất lượng sản phẩm... Do đó đây là một tiền đề quan trọng đảm bảo hiệu quả kinh tế của dự án. Nội dung thẩm định cần tập trung vào địa điểm xây dựng dự án, quy mô công suất, thiết bị, các yếu tố đầu vào, lịch trình thức hiện dự án... Kỹ thuật – công nghệ của dự án là một vấn đề phức tạp, nhất là đối với các dự án lớn, vì vậy trong quá trình thẩm định, Ngân hàng nên tìm sự hỗ trợ từ các chuyên gia có chuyên môn về vấn đề này.

Thẩm định về phương diện tài chính của phương án: Tài chính là nội dung quan trọng của dự án vì xét cho cùng, nó thể hiện được hiệu quả của việc sử dụng vốn trong đầu tư dự án, là nguồn trả nợ cho Ngân hàng. Do đó, nội dung tài chính của dự án phải được Ngân hàng đặc biệt quan tâm. Nội dung thẩm định tập trung vào các vấn đề sau: Phân tích khả năng đáp ứng về vốn cho dự án; Thẩm định hiệu quả tài chính của dự án với các chỉ tiêu: điểm hoà vốn, giá trị hiện tại của thu nhập ròng (NPV), tỷ suất sinh lời nội bộ (IRR), chỉ tiêu độ nhạy... Trong phân tích dự án, cán bộ tín dụng cần kiểm tra tính chính xác, hợp lý của các số liệu được khách hàng đưa vào bảng dự trù doanh thu lời lãi của dự án. Khi phân tích các hệ số tài chính, ngoài các chỉ tiêu NPV, IRR, Ngân hàng nên chú trọng đến việc phân tích độ nhạy của các chỉ tiêu hiệu quả. Chỉ tiêu này không chỉ giúp cho nhà thẩm định xác định được giới hạn biến động tối đa của các biến số sao cho dự án không bị lỗ mà còn giúp họ xác định trong từng dự án, nhân tố nào ảnh hưởng quan trọng nhất đến các chỉ tiêu hiệu quả để kiểm soát chặt chẽ sự biến động của nhân tố trong đó quá trình cho vay. Việc thẩm định phương diện tài chính của dự án một cách kỹ lưỡng sẽ là cơ sở để xác định mức cho vay, thời hạn thu nợ, mức thu nợ từng kỳ... hợp lý, tạo điều kiện cho doanh nghiệp hoạt động thuận lợi.

- Ngoài ra, khi thẩm định phương án kinh doanh của khách hàng Ngân hàng cũng cần quan tâm đến các vấn đề về lợi ích kinh tế-xã hội của dự án, nguồn nhân lực của dự án, ảnh hưởng của dự án đến môi trường sinh thái, đây


là điều kiện để dự án tiến hành thuận lợi và suôn sẻ.

Thẩm định tài sản đảm bảo: khi thẩm định tài sản bảo đảm cần thẩm định giá trị thị trường của tài sản bảo đảm; Thẩm định tính lỏng của tài sản đảm bảo tức là phải thẩm định khả năng bán tài sản đảm bảo trên thị trường có nhanh chóng, dễ dàng không, chi phí có cao không; Thẩm định các phương án cất giữ và bảo quản tài sản. Trên cơ sở đó đưa ra mức cho vay tối đa là bao nhiêu % giá trị của tài sản bảo đảm.

3.2.6. Kiểm tra, giám sát tín dụng chặt chẽ hơn

Cũng do đặc điểm của cho vay trung dài hạn là thời hạn dài, vốn lớn nên cán bộ tín dụng cần phải thường xuyên giám sát kiểm tra hoạt động kinh doanh của khách hàng để đảm bảo vốn được sử dụng đúng mục đích, an toàn và hiệu quả. Đồng thời trong quá trình kiểm tra giám sát theo sát hoạt động kinh doanh của khách hàng, với trình độ về tài chính và các lĩnh vực khác của mình cán bộ tín dụng có thể kịp thời phát hiện những điểm bất ổn, từ đó có những lời khuyên kịp thời cho khách hàng khắc phục những khó khăn tạm thời, vừa đảm bảo khả năng thu hồi vốn, giảm rủi ro, vừa giữ khách hàng. Việc kiểm tra, giám sát cần được thực hiện phù hợp với các giai đoạn của dự án:

- Giai đoạn đầu tư

Giai đoạn này gồm các bước: đàm phán và ký kết hợp đồng, thực hiện xây dựng công trình, lắp đặt máy móc thiết bị và vận hành chạy thử. Ở giai đoạn này cán bộ tín dụng cần tăng cường kiểm tra tiến độ thực hiện dự án, quá trình nhận vốn, sử dụng vốn của khách hàng, đảm bảo dự án được xây dựng tốt để đi vào hoạt động.

- Giai đoạn đưa công trình vào hoạt động

Ở giai đoạn này cần kiểm tra tiến độ thực hiện sản xuất có đúng kế hoạch và phù hợp với thời vụ của thị trường không, việc nhập nguyên liệu có đúng số lượng, chất lượng không, việc sử dụng nguyên liệu có lãng phí hay

Xem tất cả 101 trang.

Ngày đăng: 06/05/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí