Ảnh Hưởng Của Rủi Ro Trong Kinh Doanh Ngân Hàng


- Rủi ro tác nghiệp là rủi ro phát sinh do yếu tố con người hoặc do sự không hoàn chỉnh trong các quy trình, sự yếu kém trong công nghệ thông tin, hệ thống kiểm soát nội bộ hoặc do thay đổi của các yếu tố khách quan.

- Ngoải ra còn có các loại rủi ro như: rủi ro danh tiếng, rủi ro chiến lược, rủi ro công nghệ, rủi ro pháp lý…

1.2.3 Ảnh hưởng của rủi ro trong kinh doanh ngân hàng


Đối với ngân hàng: Rủi ro làm ảnh hưởng thu nhập của ngân hàng, làm giảm khả năng thanh toán của ngân hàng và có nguy cơ dẫn đến phá sản. Nếu mức độ rủi ro trong tầm kiểm soát của ngân hàng thì ngân hàng có thể bù đắp bằng quỹ dự phòng rủi ro, còn nếu rủi ro xảy ra mức độ nghiêm trọng thì sẽ làm mất khả năng thanh toán của ngân hàng. Ngoài việc rủi ro gây tổn thất về tài sản cho ngân hàng, rủi ro còn làm giảm uy tín của ngân hàng, lòng tin của khách hàng bị sụt giảm nhanh chóng và khách hàng chuyển sang sử dụng dịch vụ của ngân hàng khác.

Thêm nữa, Khi một ngân hàng gặp phải rủi ro khiến ngân hàng bị thua lỗ thậm chí phá sản làm cho người gửi tiền hoang mang, lo sợ ồ ạt kéo đến ngân hàng rút tiền không chỉ ở ngân hàng đó mà còn nhiều ngân hàng khác nữa làm cho toàn bộ hệ thống ngân hàng gặp khó khăn.

Đối với nền kinh tế: hoạt động của ngân hàng liên quan đến nhiều cá nhân, nhiều lĩnh vực trong nền kinh tế. Ngân hàng là kênh thu hút và bơm tiền cho nền kinh tế. Vì vậy rủi ro gây cho ngân hàng bị phá sản sẽ làm cho nền kinh tế bị suy thoái, giá cả tăng, sức mua giảm, thất nghiệp tăng, gây rối loạn trật tự xã hội.

Đối với khách hàng: Ngân hàng là trung gian tài chính quan trọng của nền kinh tế, là công cụ điều hòa vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu. Khi ngân hàng gặp rủi ro người gửi tiền có thể bị mất lãi lẫn vốn còn người vay tiền không được đáp ứng đủ vốn dẫn đến hoạt động kinh doanh bị đình trệ hệ lụy nghiêm trọng là người vay tiền có thể bị phá sản.


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 101 trang tài liệu này.

1.3 Rủi ro tín dụng tại ngân hàng thương mại


Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP Kỹ Thương Việt Nam - 3

1.3.1 Khái niệm rủi ro tín dụng


Có nhiều cách tiếp cận khái niệm rủi ro tín dụng. Hiểu một cách đơn giản: Rủi ro tín dụng là rủi ro do khách hàng không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ trả nợ.

Rủi ro tín dụng là loại rủi ro phát sinh trong quá trình cấp tín dụng của ngân hàng, biểu hiện trên thực tế qua việc khách hàng không trả được nợ hoặc trả nợ không đúng hạn cho ngân hàng.

Tóm lại, Rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết.

1.3.2 Đặc điểm của rủi ro tín dụng


Để chủ động phòng ngừa rủi ro tín dụng có hiệu quả, nhận biết các đặc điểm của rủi ro tín dụng rất cần thiết và hữu ích. Rủi ro tín dụng có những đặc điểm cơ bản sau:

- Rủi ro tín dụng mang tính gián tiếp: Trong quan hệ tín dụng, ngân hàng chuyển giao quyền sử dụng vốn cho khách hàng. Rủi ro tín dụng xảy ra khi khách hàng gặp những tổn thất và thất bại trong quá trình sử dụng vốn; hay nói cách khác những rủi ro trong hoạt động kinh doanh của khách hàng là nguyên nhân chủ yếu gây nên rủi ro tín dụng của ngân hàng.

- Rủi ro tín dụng có tính chất đa dạng và phức tạp: Đặc điểm này biểu hiện ở sự đa dạng, phức tạp của nguyên nhân, hình thức, hậu quả của rủi ro tín dụng do đặc trưng ngân hàng là trung gian tài chính kinh doanh tiền tệ. Do đó khi phòng ngừa và xử lý rủi ro tín dụng phải chú ý đến mọi dấu hiệu rủi ro, xuất phát từ nguyên nhân bản chất và hậu quả do rủi ro tín dụng đem lại để có biện pháp phòng ngừa phù hợp.

- Rủi ro tín dụng có tính tất yếu tức luôn tồn tại và gắn liền với hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại: Tình trạng thông tin bất cân xứng đã làm cho ngân hàng không thể nắm bắt được các dấu hiệu rủi ro một cách toàn diện và đầy đủ, điều


này làm cho bất cứ khoản vay nào cũng tiềm ẩn rủi ro đối với ngân hàng. Kinh doanh ngân hàng thực chất là kinh doanh rủi ro ở mức phù hợp và đạt được lợi nhuận tương ứng.

1.3.3 Nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng


Rủi ro tín dụng xảy ra trong hoạt động kinh doanh của NHTM có thể nảy sinh từ nhiều nguyên nhân

Nguyên nhân từ ngân hàng


Thứ nhất, Thiếu sự giám sát của các cấp quản lý. Cán bộ tín dụng cần có sự phê duyệt của lãnh đạo trước khi giải ngân. Do vậy, nếu cấp quản lý không có sự kiểm tra, đánh giá xem quyết định của cán bộ đã thực sự chính xác chưa thì nguy cơ rủi ro tín dụng sẽ là rất cao. Hơn nữa, sau khi giải ngân rồi, cán bộ tín dụng vẫn phải tiếp tục theo dõi khách hàng để sớm phát hiện ra dấu hiệu của những khoản nợ có vấn đề. Tuy nhiên, việc theo dõi này đối với nhiều cán bộ chỉ mang tính hình thức. Do vậy, nếu các cấp quản lý không có sự giám sát đối với cán bộ tín dụng, hoạt động của các cán bộ tín dụng sẽ không hiệu quả, thậm chí dẫn đến những sai phạm đạo đức trong cho vay và thu nợ. Ngoài ra, các cơ quan cấp trên không quan tâm đến thực trạng tín dụng của ngân hàng thì sẽ không có những chỉ đạo kịp thời để ngăn ngừa và xử lý rủi ro xảy ra.

Thứ hai, Sự yếu kém của đội ngũ cán bộ. Sự yếu kém ở đây bao gồm cả về năng lực và phẩm chất đạo đức. Nếu một cán bộ tín dụng non kém về trình độ, thiếu kiến thức, thiếu kinh nghiệm thì sẽ không có khả năng thẩm định và xử lý thông tin, đánh giá khách hàng thiếu chính xác, mức vay, lãi suất vay và kỳ hạn không phù hợp; dẫn đến chất lượng tín dụng thấp, rủi ro cao. Ngoài ra, nếu cán bộ tín dụng không tuân thủ theo đúng quy trình tín dụng như giải ngân trước khi hoàn thành chứng từ hay không kiểm tra giám sát việc sử dụng vốn của người vay, thì việc mất vốn rất dễ xảy ra. Hơn nữa, cán bộ tín dụng mà phẩm chất đạo đức kém, không có tinh thần trách nhiệm, dễ bị cám dỗ thì sẽ gây thiệt hại rất lớn cho ngân hàng bằng


cách cho vay chỉ dựa trên mối quan hệ với khách hàng, dựa trên lợi ích cá nhân mà bỏ qua những điều kiện và thủ tục cần thiết.

Thứ ba, Ngân hàng chưa đa dạng hoá các danh mục đầu tư. Một công cụ luôn được nhắc đến trong quản trị tín dụng ở tất cả các ngân hàng trên thế giới là quản trị danh mục đầu tư. Quản trị danh mục làm cân đối và kiềm chế rủi ro bằng cách nhận dạng, dự báo và kiểm soát mức độ rủi ro với từng thị trường, khách hàng, loại sản phẩm tín dụng và điều kiện hoạt động khác nhau. Mặc dù hiểu rõ tầm quan trọng của việc đa dạng hoá danh mục đầu tư, song rất nhiều ngân hàng chỉ cho vay một hoặc hai ngành hoặc chỉ cho vay một vài doanh nghiệp lớn, nhóm kinh doanh đơn lẻ. Một danh mục đầu tư phụ thuộc chủ yếu vào một ngành hay một loại mặt hàng là rất nguy hiểm vì không ngành nào là không có rủi ro.

Thứ tư, Định giá khoản vay không theo mức độ rủi ro của khách hàng. Về cơ cấu, lãi suất cho một khoản vay phải được xác định ở mức đảm bảo bù đắp được chi phí vốn đầu vào, chi phí quản lý, phần lợi nhuận mong muốn và phần bù đắp rủi ro của khoản vay. Khách hàng được đánh giá có mức độ rủi ro càng cao, phần bù rủi ro càng lớn. Nhưng vì cạnh tranh nên một số ngân hàng có thể chấp nhận mức giá cho vay thấp, thậm chí chỉ đủ chi phí vốn đầu vào và chi phí quản lý, không tính đến phần bù rủi ro. Việc làm đó trong dài hạn không những làm giảm lợi nhuận mà còn làm tăng tính rủi ro trong hoạt động tín dụng của ngân hàng.

Nguyên nhân từ phía khách hàng


Thứ nhất, Do khách hàng kinh doanh thua lỗ nên mất khả năng trả nợ. Trường hợp này rất phổ biến do khách hàng có trình độ yếu kém trong dự đoán các vấn đề kinh tế, yếu kém trong năng lực quản lý, sử dụng vốn sai mục đích, sản phẩm chất lượng thấp không bán được… Hơn nữa có rất nhiều người vay sẵn sàng lao vào những cơ hội kinh doanh mạo hiểm với kỳ vọng thu được lợi nhuận cao, mà không tính toán kỹ hoặc không có khả năng tính toán những bất trắc có thể xảy ra nên khả năng xảy ra tổn thất với ngân hàng là rất lớn.


Thứ hai, Do khách hàng cố tình chiếm dụng vốn của ngân hàng. Để đạt được mục đích thu được lợi nhuận, nhiều khách hàng sẵn sàng tìm mọi thủ đoạn để ứng phó với ngân hàng như mua chuộc hoặc cung cấp các báo cáo tài chính sai lệch. Trong trường hợp này, nếu không phát hiện ra, ngân hàng sẽ đánh giá sai về khả năng tài chính của khách và cho vay vốn với khối lượng và thời hạn không hợp lý, dẫn đến rủi ro tiềm ẩn là rất cao. Ngoài ra, cũng có những trường hợp người kinh doanh có lãi song vẫn không trả nợ cho ngân hàng đúng hạn mà cố tình kéo dài với ý định không trả nợ hoặc tiếp tục sử dụng vốn vay càng lâu càng tốt.

Các nguyên nhân khác


Những nguyên nhân này phần lớn xuất hiện từ môi trường xung quanh như chất lượng thông tin, biến động kinh tế, chính sách pháp luật, môi trường tự nhiên,..

Thứ nhất, Chất lượng thông tin chưa cao. Các thông tin mà ngân hàng thu thập thường liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh, khả năng tài chính của khách hàng, tình hình kinh tế xã hội, cạnh tranh trên thị trường; sau đó dựa vào các thông tin thu thập được để ra quyết định cho vay. Tuy nhiên, trên thực tế thì không phải lúc nào các thông tin ngân hàng thu thập được đều có tính chính xác, đầy đủ và kịp thời. Do vậy, nếu hệ thống thông tin tín dụng của ngân hàng không hoạt động có hiệu quả, cập nhật được những thông tin đáng tin cậy thì tất yếu dẫn đến việc ngân hàng thất thoát vốn khi cho vay.

Thứ hai, Sự thay đổi trong các chính sách kinh tế, pháp luật. Sự thiếu nhất quán trong các chính sách kinh tế pháp luật cũng gây ảnh hưởng không nhỏ tới ngân hàng cũng như như các doanh nghiệp có sử dụng vốn vay ngân hàng. Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp sẽ không ổn định khi có những thay đổi trong quy định về thuế, vốn..,cũng như hoạt động tín dụng của ngân hàng cũng bị tác động nhiều bởi những văn bản luật về tài sản đảm bảo, dự trữ, trích lập dự phòng… Như vậy, các chính sách kinh tế, pháp luật không hoàn chỉnh cũng gây khó khăn có doanh nghiệp về khả năng trả nợ, cũng như đe doạ đến sự an toàn của ngân hàng trong cho vay.


Thứ ba, Những biến động kinh tế không dự báo được. Khi nền kinh tế ổn định, tăng trưởng lành mạnh thì nhu cầu đầu tư trong xã hội có xu hướng gia tăng, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động tín dụng. Tuy nhiên, khi xuất hiện những biến động kinh tế như lạm phát, giá tăng ở một số mặt hàng nào đó ảnh hưởng đến một nhóm ngành thì rủi ro tín dụng với ngân hàng là rất lớn. Nhiều người vay có thể thích ứng và vượt qua khó khăn đó, nhưng cũng có rất nhiều người bị đình trệ hoạt động sản xuất, kinh doanh thua lỗ nên khả năng trả nợ vốn vay ngân hàng không được đảm bảo.

Thứ tư, do môi trường tự nhiên là yếu tố bất khả kháng không thể kiểm soát được như động đất, bão lụt, sóng thần,… gây ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của người đi vay, tài sản bị tổn thất, không có khả năng trả nợ.

1.3.4. Tác động của rủi ro tín dụng


Những tổn thất do rủi ro tín dụng gây ra không chỉ tác động đến bản thân ngân hàng mà còn có tác động xấu đến toàn bộ hệ thống ngân hàng và nền kinh tế và có thể lan rộng ra hệ thống tài chính thế giới.

Đối với hoạt động của NHTM


Khi rủi ro tín dụng xảy ra, NHTM sẽ bị giảm thu nhập cụ thể là nếu khách hàng không trả được nợ đúng hạn sẽ gây ra tình trạng tồn đọng vốn, NH không thể tiếp tục cho vay và đầu tư.

Ngoài ra NH còn phải bỏ ra một khoản chi phí đáng kể để thu hồi vốn, trích lập dự phòng rủi ro và quan trọng là phải trả vốn và lãi cho khoản tiền huy động khi đến hạn, điều này sẽ làm cho ngân hàng mất cân đối trong việc thu chi. Từ đó NH sẽ rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán, có thể dẫn đến nguy cơ gặp rủi ro thanh khoản. Và kết quả là làm thu hẹp quy mô kinh doanh, năng lực tài chính giảm sút, uy tín, sức cạnh tranh giảm không những trong thị trường nội địa mà còn lan rộng ra các nước, kết quả kinh doanh của ngân hàng ngày càng xấu có thể dẫn ngân hàng đến thua lỗ hoặc đưa đến bờ vực phá sản.


Đối với nền kinh tế - xã hội


Bắt nguồn từ bản chất và chức năng của ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính chuyên huy động vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế để cho các tổ chức, các doanh nghiệp và cá nhân có nhu cầu vay lại. Bởi vậy, khi rủi ro tín dụng xảy ra thì không những ngân hàng chịu thiệt hại mà quyền lợi của người gửi tiền cũng bị ảnh hưởng. Khi một ngân hàng gặp phải rủi ro tín dụng hay bị phá sản thì người gửi tiền ở các ngân hàng khác hoang mang lo sợ và kéo nhau ồ ạt đến rút tiền ở các ngân hàng khác, làm cho toàn bộ hệ thống ngân hàng gặp phải khó khăn.

Trên thực tế ở rất nhiều nước trên thế giới, khi các ngân hàng gặp phải rủi ro thì hàng loạt các vấn đề kinh tế - xã hội đã nảy sinh và những giải pháp nhằm ổn định tình hình bao giờ cũng rất tốn kém và hậu quả có thể còn để lại những di chứng trong thời gian dài, đặc biệt về mặt tâm lý và lòng tin của công chúng. Ngoài ra, hậu quả của rủi ro làm giảm thấp uy tín quốc gia, khả năng thu hút vốn nước ngoài và các quan hệ kinh tế đối ngoại khác đều phải chịu những điều kiện khó khăn hơn.

Ngoài ra, rủi ro tín dụng cũng ảnh hưởng đến nền kinh tế thế giới vì ngày nay, nền kinh tế mỗi quốc gia đều phụ thuộc vào nền kinh tế khu vực và thế giới.

Đối với khách hàng


Khi gặp rủi ro tín dụng, ngân hàng không thu được vốn tín dụng đã cấp và lãi cho vay thậm chí dẫn đến phá sản không thể chi trả lãi và vốn tiền gửi cho người gửi tiến đồng thời các doanh nghiệp, cá nhân có nhu cầu vốn không được đáp ứng ảnh hưởng đến nhu cầu vốn cho mục đích sản xuất kinh doanh và các mục đích khác.

Tóm lại, Rủi ro tín dụng của một ngân hàng xảy ra ở nhiều mức độ khác nhau làm cho ngân hàng bị giảm lợi nhuận, không thu hồi được lãi cho vay, thậm chí dẫn đến mất vốn. Nếu tình trạng này kéo dài không khắc phục được, ngân hàng sẽ bị phá sản, gây hậu quả nghiêm trọng cho nền kinh tế nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng. Chính vì vậy đòi hỏi các nhà quản trị ngân hàng phải hết sức thận trọng và có những biện pháp thích hợp nhằm giảm thiểu rủi ro.


1.3.5 Đo lường rủi ro tín dụng


Đo lường rủi ro tín dụng là việc ngân hàng xây dựng mô hình thích hợp để lượng hóa mức độ rủi ro tín dụng. Từ đó xác định phần bù rủi ro và giới hạn tín dụng ban toàn tối đa đối với một khách hàng, cũng như trích lập quỹ dự phòng để tài trợ cho rủi ro tín dụng. Để đo lường rủi ro, ngân hàng cần thu thập số liệu, thông tin và phân tích, đánh giá rủi ro. Trên cơ sở kết quả thu thập được, lập ma trận đo lường rủi ro.

Đo lường rủi ro tín dụng giúp ngân hàng ra quyết định cấp tín dụng cho khách hàng; định kỳ hoặc đột xuất đánh giá lại rủi ro tín dụng cho toàn bộ danh mục tín dụng; cho phép ngân hàng lường trước được những dấu hiệu mà khoản cấp tín dụng có chất lượng xấu đi để có biện pháp đối phó kịp thời. Việc đo lường rủi ro tín dụng giúp ngân hàng ước lượng được mức tổn thất có thể xảy ra để phân loại tín dụng làm cơ sở trích lập dự phòng.

Có hai phương pháp cơ bản để đo lường rủi ro tín dụng: phương pháp định tính và phương pháp định lượng, hai phương pháp này hỗ trợ lẫn nhau để đo lường rủi ro tín dụng. Ngân hàng có thể sử dụng một trong hai phương pháp trên hoặc cả hai phương pháp để đo lường rủi ro tín dụng.

- Phương pháp định tính: là phương pháp ngân hàng tiến hành thu thập, phân tích thông tin và đo lường thông qua các mặt: năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự, khả năng tài chính, các biện pháp đảm bảo nghĩa vụ trả nợ,…cụ thể qua một số mô hình và chỉ tiêu sau:

Mô hình 6C

Trọng tâm của mô hình này là xem xét liệu người vay có thiện chí và khả năng thanh toán các khoản vay khi đến hạn hay không. Cụ thể bao gồm 6 yếu tố sau:

+ Tư cách người vay (Character): Cán bộ tín dụng phải làm rõ mục đích xin vay của KH, mục đích vay của KH có phù hợp với chính sách tín dụng hiện hành của NH hay không, đồng thời xem xét về lịch sử đi vay và trả nợ đối với

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 11/12/2023