Cảm Hứng Quê Hương Đất Nước - Quê Hương Thiền Tông


Rõ ràng, các nhà thơ văn của Thiền phái rất nặng tình người với những nỗi ưu lo thế sự. Một người như Tuệ Trung cũng cảm thấy mệt mỏi, lo lắng bởi: “Tằng vi vật dục dịch

lao khu, Bãi lạc trần hieuâ thế ngoại du.”(Xuất trần) [333, 235] (H 154) (Từng bị vật dục sai

khiến làm mệt mỏi thân xác, Mong thoát khỏi bụi trần ồn ào mà rong chơi ngoài cõi thế.) [333, 235]; Thánh Tông thì thương tiếc đến quặn lòng cho một bề tôi của nhà Nam Tống ra đi mãi mãi “Thống khóc Giang Nam lão cự khanh.” (Vãn Trần Trọng Hưng) [333, 411] (H 155) (Đau đớn khóc người bề tôi giỏi kỳ cựu của đất Giang Nam.) [333, 411]; Trần Nhân Tông từng chia sẻ cõi lòng mình với người khuê phụ qua hình ảnh “Hoàng ly bất ngữ oán Đông phong.” [333, 461] (H 156) (Chim oanh vàng bặt tiếng, oán gió Đông.) [333, 462]; Trong bài thơ Ai phù lỗ, bằng cái nhìn cảm thông và trái tim nhân ái mênh mông của một thiền sư đắc đạo, Huyền Quang đã hiểu được nỗi đau, nỗi nhớ nhà, nhớ người thân của những người lính bị ta bắt làm tù binh: “Khóa huyết thư thành dục ký âm, Cô phi hàn nhạn tái vân thâm. Kỷ gia sầu đối kim tiêu nguyệt, Lưỡng xứ mang nhiên nhất chủng tâm.” [333, 692] (H 157) (Chích máu thành thư muốn gửi lời, Lẻ loi nhạn lạnh, ải mù khơi. Đêm nay mấy kẻ sầu trăng nhỉ? Xa cách, nhưng lòng chỉ một thôi.) [333, 693].

Một trái tim và khối óc như thế đã tạo dòng cảm hứng thế sự trong thơ Huyền Quang được bộc lộ lần lượt qua thể thơ, tứ thơ xuyên suốt cả cuộc đời ông. Ngay khi được tôn vinh làm Tổ thứ ba của Thiền phái, lòng ông bao giờ cũng canh cánh nỗi lo cho đời, cho đạo. Ông tiếc cảnh xuân không có chủ, thơ không có nguồn thơ và buồn khi thấy mấy cây hoa buồn bã trước gió xuân “Xuân vô chủ tích thi vô liệu, Sầu tuyệt Đông phong kỷ thụ hoa.” (Thứ Bảo Khanh tự bích gian đề) [333, 686] (H 158), để rồi phải mượn tứ xuân an ủi ông già ốm yếu “Nguyệt tá xuân tư ủy bệnh ông.” (Mai hoa) [333, 690] (H 159); và ông cũng cảm thấy trách nhiệm của mình quá lớn mà tự nhận tài đức của mình quá mỏng, thẹn thùng với “Đức bạc thường tàm kế Tổ đăng.” [333, 688] (H 160) khi phải đứng ra lãnh đạo Giáo hội Tăng già. Chính điều đó khiến ông quyết tâm làm hóa hiện cảnh Phật ở Yên Tử mà chẳng “Ngại chi non nước cảnh đường xa.” [333, 712] (N 161).

Cuộc sống có rất nhiều biến động và chính trong sự biến động đó, người dân Đại Việt bằng tấm lòng yêu nước đã làm nên những kỳ tích lịch sử hào hùng cho cả dân tộc. Tại đây, con người biết đón nhận niềm hạnh phúc cũng như biết chia sẻ nỗi đau mà yêu


thương nhau nhiều hơn để cống hiến cho đời, cho đạo tươi sáng. Tất cả đã tạo nên những cảm hứng đầy nhân văn - thế sự trữ tình trong thơ văn của Thiền phái Trúc Lâm mà mỗi khi ai đọc chúng, cũng thấy đây chính là tiếng nói đích thực của con người luôn khát vọng vươn tới hạnh phúc an lạc.

2.3.4. Cảm hứng quê hương đất nước - quê hương Thiền tông

Quê hương bao giờ cũng là suối nguồn thơ văn cho những ai cầm bút sáng tác. Đọc thơ văn của Thiền phái Trúc Lâm, ta thấy cảm hứng về quê hương đất nước được khắc hoạ rõ nét qua những hình ảnh thân thương của cung điện, đình làng, mái nhà, đồng ruộng, cỏ cây hoa lá, tiếng chuông chùa, dòng sông, bến nước, tiếng sáo của mục đồng … Nơi ấy từng lưu dấu biết bao kỷ niệm, hoài niệm của mỗi người trước biến động thăng trầm của lịch sử, cuộc đời.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 399 trang tài liệu này.

Cũng chính từ mảnh đất quê hương đất nước mà con người luôn thực thi cuộc hành trình tìm về miền đất thanh tịnh giải thoát của mỗi người để an trú. Miền đất an lạc đó không ở đâu xa mà ngay trong thực tại đời thường. Nó khơi nguồn cảm hứng cho các thiền gia của Thiền phái viết về “quê hương Thiền tông” luôn mang hơi thở và sự sống của “hồn thiêng đất nước”.

Cảm hứng quê hương đất nước được các tác giả của Thiền phái ghi lại thành nhiều bài thơ hay, tứ thơ bay bổng với hình ảnh tâm thế cuả Đại Việt trong thời đại Đông A hào hùng. Điều này chứng tỏ, hễ ai sống với quê hương đất nước là sống với mảnh đất thân yêu, nơi sinh ra những con người chung lòng bảo vệ Tổ quốc non sông, quét sạch quân thù, xây dựng giang sơn ngày một huy hoàng hơn. Lịch sử như là một trình tự của dòng mạch chảy trong suối nguồn thơ văn dân tộc, đọc toàn bộ tác phẩm văn học của Thiền phái, hẳn thấy quê hương đất nước thay đổi qua từng thời nhà Trần trị vì.

Giá trị văn học trong tác phẩm của Thiền phái Trúc Lâm - 17

Với những kỳ tích làm nên lịch sử, tâm hồn các nhà thơ Thiền phái mở rộng, giao cảm với đất trời trên mảnh đất quê hương. Hình ảnh non sông đất nước tươi đẹp cứ đi vào thơ ca theo cảm quan riêng từng người, nhưng cùng chung một cảm hứng là giải bày tấm lòng vui sướng trước hiện thực cuộc sống đầm ấm đang xảy ra. Điều đáng nói, là các thi sĩ đều xuất thân từ tầng lớp quý tộc, phần lớn thời gian là sống trong vương triều, thế mà họ vẫn hòa điệu với đời sống dân dã, mảnh đất đã nuôi dưỡng họ nên người và làm nên kỳ


tích. Trong một lần đến phủ An Bang, Trần Thánh Tông thích thú được sống phong cảnh hữu tình để sớm chơi núi mây nổi, đêm nghỉ bến trăng thanh. Điều đáng nói là tứ thơ theo đó mà tuôn trào “Hốt nhiên đắc giai thú, Vạn tượng sinh hào đoan.” [333, 400] (H 162) (Bỗng dưng được thú lạ, Ngọn bút nảy muôn hình.) [333, 400]. Vì thế, hồn quê đất thiêng có lúc được sống động hơn, không gian không còn bao la mà dường như thu hẹp lại bên cạnh thời gian hữu hạn, tâm thức con người suy tư, tự nhìn lại chính mình. Ta có thể bắt gặp cảnh vật con người ấy trong Cung viên xuân nhật ức cựu: “Vạn tử thiên hồng không lạn mạn, Xuân hoa như hứa vị thùy khai.” [333, 403] (H 163) (Đầy vườn rực rỡ hồng chèn tía, Hoa khéo vì ai vẫn nở nhiều.) [333, 403], là cảnh mùa hạ với sen nở ngát lòng thoảng qua song bắc “Hà hoa xuy khởi bắc song lương.” với tiếng ve kêu rộn ràng khi trời xế chiều “Tam lưỡng thiền thanh náo tịch dương.” [333, 404] (H 164), là hình ảnh “Điểu tán lạc sơn hoa.” (Chim bay tan tác rụng hoa ngàn.) trong Đề Huyền Thiên động [333, 401] (H 165), hay cảnh quan trở nên thơ hơn “Vạn điệp bạch vân già cố trạch.” (Mây trắng muôn trùng mái cũ bao.) [333, 411)] (H 166), là nước mùa thu lồng trời thu thật hữu tình không gì đẹp hơn “Thủy hữu thu hàm mùa thu.” [333, 411] (H 167).

Quê hương đất nước trong thi ca Tuệ Trung thì càng gần gũi với nếp sống người dân hơn nữa. Vẫn nhà tranh vách lá, cửa liếp nhưng ấm áp tình quê bên bếp lửa hồng với bữa ăn dây leo và loài chuột, lòng người thanh thản không thị phi gì cả, thật là “Tự tại” thân tâm như tên gọi bài thơ: “Sài môn mao ốc cư tiêu sái, Vô thị vô phi tự tại tâm.” [333, 241] (H 168) (Nhà tranh cửa liếp phong quang chán, Phải trái đều không, tự tại tâm.) [333, 242]. Và như thế, quê hương đất nước trở thành dòng sữa ngọt ngào nuôi dưỡng tâm thức con người lớn lên, trưởng thành để cất bước chân đi vào hiện thực cuộc đời mà đóng góp cho xứ sở thân yêu của mình ngày mỗi xanh tươi, trù phú.

Ta còn bắt gặp hình ảnh quê hương đất nước trong tiếng thơ của Trần Nhân Tông. Ở đó, mái chùa, tiếng chuông vang vọng cùng với tiếng kinh cầu bên mái chùa, bến nước, gốc đa, mục đồng thổi sáo… Tất cả đều được cô đúc thành những vần thơ đẹp để phô diễn thế giới thực tại hồn thiêng sông nước thanh bình của người nông dân áo vải, mùi thơm của đất, trong xanh của trời, sự trong sáng của cõi tâm. Ngắm nhìn cảnh trí mùa xuân, Trần Nhân Tông viết Xuân cảnh: “Dương liễu hoa thâm điểu ngự trì, Hoa đường thiêm


cảnh mộ vân phi. Khách lai bất vấn nhân gian sự, Chỉ bạng lan can khán thụy vi.” [333, 460] (H169] (Chim nhẫn nha kêu, liễu trổ đầy, Thềm hoa chiều rợp bóng mây bay. Khách vào chẳng hỏi chuyện nhân thế, Cùng tựa lan can nhìn núi mây.) [333, 460].

Rõ ràng, Trúc Lâm nhìn cảnh xuân thấy hoa nở, nghe tiếng chim kêu trước thềm hoa, bóng rợp mây bay với nỗi lòng hướng nghĩ hồn quê thân thiết. Trong cái khoảnh khắc sâu lắng và ngập tràn cảm xúc thiết tha, bao nhiêu chuyện đời rơi rụng hết, chủ khách chỉ im lặng thấy rõ chân lý của cuộc đời. Chỉ bốn câu thơ thôi, cảnh xuân của quê hương đất nước đưa người ta bước vào thế giới tịch lặng, thấu rõ cửa không. Nhà sư nói đạo mà không dùng danh từ Thiền đạo cả, đấy là đặc tài của Thiền sư – Thi sĩ.

Tiếng thơ của Trúc Lâm còn vang lên từ tiếng chuông chùa cổ trên châu Lạng, giữa cảnh sương thu lá đỏ ráng đỏ buồi chiều. Cảnh thật bình yên khiến lòng người cũng cô tỉnh để ngắm nhìn trần thế trong sự chuyển hóa con người. Ai đó đọc bài Lạng châu vãn cảnh thì thấy đây là tiếng chuông hay tiếng thu, có khi là tiếng lòng của ngư thuyền mà ta luôn chiêm nghiệm và thể nhập với đời “Cô tự thê lương thu ái ngại, Ngư thuyền tiêu sắc mộ chung sơ. Thủy minh, sơn tĩnh bạch âu quá, Phong tịnh, vân nhàn, hồng thụ sơ.” [333, 468] (H 170) (Chùa cổ đìu hiu, cách khói thu, Chuông chiều gióng giả, quạnh thuyền câu. Mây trăng, gió lặng, thưa cây đỏ, Nước sáng, non yên, trắng bóng âu.) [333, 468].

Và không đâu đẹp bằng chính mảnh đất thiêng liêng quê hương đất nước của mình. Theo tôi Thiên trường vãn vọng là bài thơ tuyệt tác trong thơ cổ Việt Nam gợi mở một thế giới thanh bình của hồn quê sông núi nước nhà. Với tâm thế trên cao của người dân sống trong một nước độc lập tự chủ, Trần Nhân Tông đứng ở phủ Thiên Trường nhìn ra ruộng đồng bát ngát, xóm thôn trù phú, nghe được tiếng sáo mục đồng dắt trâu về ngang qua cánh cò trắng từng đôi liệng xuống đồng, thật đẹp làm sao! Trong cõi hư không vẫn mang bóng dáng chân thực của thực tại đời thường, đúng là thi trung hữu họa, giữa cái hư gắn liền cái thực, giữa cõi tịch mà hóa thành cõi động của cuộc sống vốn luôn vận hành:

“Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên, (Trước xóm sau thôn tựa khói lồng, Bán vô bán hữu tịch dương biên. Bóng chiều dường có lại dường không. Mục đồng địch lý quy ngưu tận, Mục đồng sao vẳng, trâu về hết,

Bạch lộ song song phi hạ điền.” Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng.)


[333, 464] (H 171] [333, 465]

Nét đẹp của quê hương xứ sở, mảnh đất tình người còn xuất hiện ở nhiều bài thơ khác nữa: Xuân hiểu, Nhị nguyệt thập nhất dạ, Động thiên hồ thượng, Vũ Lâm thu vân, Nguyệt, Thiên Trường phủ…với nhiều tứ thơ lạ, xúc cảm dạt dào. Ngay cả những thi kệ trong các cuộc đại tham của Trúc Lâm cũng cất lên tiếng thơ mang âm hưởng mô tả không gian đất nước, sông núi, ruộng vườn, chùa chiền, thôn xóm… Cứ đọc tác phẩm của Thiền phái thì sẽ thấy hồn dân tộc còn vọng, mà hồn dân tộc còn là đất nước phát triển vững bền.

Không ai khác hơn, Pháp Loa cũng khát khao mong chờ quê hương đất nước được trải rộng sông dài, trời cao biển rộng, càng nhìn cảm nhận càng xa, bước vào mới thấy trập trùng mà bài Nhập tục luyến thanh sơn mô tả “Sơ cấu cùng thu thủy, Sàm nhan lạc chiếu trung. Ngang đầu khan bất tận, Lại lộ hựu trung trùng.” [333, 646] (H 172]. (Dòng thu in bóng núi, Chót vót dưới chiều tà. Ngước mặt nhìn vời vợi. Đường vào trập trùng xa.) [333, 647]. Có lẽ đây là đường bước vào Yên Tử hùng vĩ, nơi sản sinh ra những con người tuỳ duyên lạc đạo, thiết tha xây dựng quê hương mà Huyền Quang khắc hoạ trong Vịnh Vân Yên tự phú: “Đất tựa vàng liền, Cảnh bằng ngọc đúc. Mây năm thức che phủ đền Ngưu, Núi nghìn tầng quanh co đường Thục. La đá tầng thang dốc, một hòn ướm vịnh một hòn, Nước suối chảy làn sâu, đòi khúc những dò đòi khúc.”[333, 710] (N 173).

Đúng là cảnh và người thật bình an, hòa điệu với cuộc sống. Người ta cứ thế mà ngủ thật ngon giữa buổi trưa Ngọ thụy [333, 682] và Trú miên [333, 691], chú tiểu bên lò sưởi hỏi nghĩa trang kinh, thầy thổi sáo mặc cho ai cười chê qua bài Địa lô tức sự: “Ổi dư cốt đột tuyệt phần hương, Khẩu đáp sơn đồng vấn đoản chương. Thủ bả suy thương hòa thái thác; Đồ giao nhân tiếu lão tăng mang.”. [333, 687] (H 174) (Củi đã tàn, cũng chẳng thắp hương; Miệng đáp gia đồng hỏi mấy chương. Bận bịu cho ai cười chế lão, Liền tay ống thổi vời mo mang.). [333, 688]. Ngòi bút của Huyền Quang với quê hương đất nước thật đa dạng lúc thì thanh thản, lúc thì bộc lộ tâm trạng qua nhiều cung bậc khác nhau giữa dòng đời qua bài Phiếm chu [333, 694] và Chu trung [333, 684], lắm lúc tự độc thoại một mình trong chùm thơ Hoa cúc để cảm nhận về quê hương và cuộc đời.


Nhìn chung, quê hương đất nướùc qua ngòi bút của các tác giả Thiền phái Trúc Lâm đã được tả rất chân thực với hồn quê, nhưng cũng rất huyền diệu và lung linh sống động. Ở đó, không gian thật bao la hùng vĩ, ứng với tâm thế của người dân Đại Việt đang sống trong một đất nước độc lập tự chủ hoàn toàn nhưng lại rất gần gũi quen thuộc với những con người bình dị thanh thản, giải thoát. Đây cũng chính là một trong những nguồn cảm hứng để các tác giả của Thiền phái trước tác.

Bên cạnh cảm hứng quê hương đất nước cảm hứng quê hương Thiền tông. Đó là hình ảnh quê hương tự tính của mỗi người trong cuộc hành trình về miền đất an lạc vĩnh hằng. Cuộc ra đi của Trần Thái Tông là sự trở về chính nơi mình quyết định từ bỏ khi ông có ý nguyện rời ngai vàng vào núi Yên Tử làm Phật. Nếu không như thế thì con người sẽ vô định, không bao giờ tìm được xứ sở quê hương của mình “Vĩnh vi lãng đãng phong trần khách, Nhật viễn gia hương vạn lý trình.” [333, 42] (H 175] (Phong trần thất thểu làm thân khách, Muôn dặm xa quê cuộc vĩnh trình.) [333, 45].

Và quê hương vĩnh cửu mà Trần Thái Tông đã khát khao hóa hiện, được thực thi bằng cả tấm lòng lấy tâm thiên hạ là làm tâm của mình, lấy ý muốn của thiên hạ làm ý muốn của mình, dưới tác động của Quốc sư Phù Vân “Thuỳ tri vân quyển, trường không tịnh, Thúy lộ thiên biên, nhất dạng sơn.” [333, 54] (H 176). (Ai hay mây cuốn, trời quang tạnh, Núi hiện chân trời, biếc một màu.) [333, 56]. Ý nguyện đó khiến cho Trần Thái Tông thực thi, mở đầu bằng cuộc hành trình trở về quê hương Thiền tông, được trải dài qua hình ảnh Tứ Sơn: “Tứ sơn tiểu bích vạn thanh tùng” [333, 42] (H 177) (Bốn núi cheo leo vạn khóm xanh), [333, 45], là “Nguyệt lạc trường giang dạ kỷ canh” [333, 44] (H 178) (Trăng lặn, sông dài đêm mấy canh) [333, 48], để rồi hướng tâm an trú ở thế giới thanh bình mà Phổ khuyến phát Bồ đề tâm văn mô tả “Thanh sơn đề xứ kiến thiên khoát, Hồng ngẫu khai thời văn thủy hương.” [333, 63] (H 179) (Non xanh nơi thấp trông trời rộng, Sen đỏ mùa hoa nghe nước thơm.) [333, 65].

Quê hương Thiền tông còn được các tác giả khắc hoạ qua những hình ảnh rất quen thuộc, thân thiết với đóa sen hồng nở ngát dưới ao, trong sắc màu mùa thu tỉnh lặng, như mời gọi con người trở về với bản lai diện mục của mình. Điều Tuệ Trung muốn nói, hoa sen từ trong bùn được sinh ra và lớn lên trong bùn mà không bị nhiễm bùn. Cũng thế, con


người được sinh ra trong đời, lớn lên trong đời mà không bị nhiễm ô ở đời. Đây chính là quê hương đích thực của mỗi người, chứ không ở đâu cả mà ý tứ bài Thị chúng muốn giải trình “Thu quang hắc bạch tùy duyên sắc, Liên nhị hồng hương bất trước nê. Diệu khúc bản lai tu cử xướng, Mạc tầm nam bắc dữ đông tê (tây).” [333, 265] (H 180). (Thu trong, biếc hẳn tùy duyên sắc, Sen ngát, hồng đâu bởi nước ao. Khúc điệu “gốc nguồn” xin cứ há, Bốn phương thôi chờ hỏi nơi nao.) [333, 265] …

Đó cũng là mảnh đất tâm linh thường được các thiền sư mời gọi các hành giả trở về từ lâu lắm rồi. Ngày xưa đức Phật từng đón nhận Thiện Tài Đồng Tử trở về ngôi nhà Bồ đề tâm, sau chuyến hành trình trải qua 53 cảnh giới được mô tả trong kinh Hoa Nghiêm. Tiếp nối truyền thống này, các Thiền gia – thi sĩ của Thiền phái cất bước chân quay về trú xứ quê hương thanh tịnh giữa cuộc đời đầy biến động. Ta có thể thấy rõ hình ảnh về nhà trong tứ thơ đầy tính thẩm mỹ nghệ thuật, kết cấu chặt chẽ, súc tích, lời thơ, từ ngữ quen thuộc như “gia hương đáo” (về quê nhà), “cố hương quy” (về quê cũ)… Đây cũng là hình ảnh khá ấn tượng trong thơ Thiền của Thiền phái, nó minh chứng khả năng tiếp biến và sáng tạo của các nhà sáng tác thi ca Thiền phái về hình ảnh mô tả “quê hương Thiền tông” thật gần gũi với tâm thức người dân Việt Nam. Trần Thái Tông viết:

“Bạch ngọc nguyên lai một phủ ngân, (Ngọc trắng nguyên xưa không vết búa, Hà tu trùy trác khổ cầu tân. Cần gì gia công mài với dũa.

Đồ trình bất thiệp gia hương đáo, Đường đi không bước vẫn về nhà, Phó giữ huyền nhai tán thủ nhân.” Mặc kệ trên non, vách dựng ngửa.) [333, 127] (H 181) [333, 142]

Ngọc trắng vốn sáng trong, đẹp đẽ vô cùng. Cũng vậy, tâm tính con người xưa nay cũng thế. Con đường trở về quê hương Thiền tông là con đường trở tìm lại bản tâm trong sáng của mình. Nơi đó chính là điểm đến “gia hương đáo”. Chỉ khi nào con người lang thang trên vạn nẻo đường của ý thì trở thành kẻ lưu lạc ở chốn “khách trần”, không nơi nương tựa. Hay hơn nữa là hình ảnh “hoàn gia” (trở về mái nhà xưa) sau bao năm tháng làm khách “phong trần”. Thực chất, đó là cuộc hành trình trở về cội nguồn “bản lai diện mục” xưa nay vốn có của mình. Tại đây, con người an trú trong tự tính chân như “Đàn chỉ Đài Sơn tuyệt thị ngoa, Bất lao tiến bộ đắc hoàn gia.) [333, 128] (H 182) (Một phút Đài


Sơn chuyện nói ngoa, Chẳng cần mệt bước vẫn về nhà.) [333, 142]. Và hình ảnh để lại dấu ấn tâm linh đẹp đẽ và quen thuộc nhất trong tâm thức người dân Việt Nam nhất là “Nhất khúc vô sinh xướng liễu, Đảm hoành tất lật cố hương quy.” [333, 230] (H 183) (Vừa lúc “vơ sinh” dứt khúc ca, Thì cầm ngang ống sáo lại quê nhà.) [333, 231].

Có gì thích thú hơn bằng việc trở lại chốn làng xưa, nơi quê nhà có thuở còn thơ từng làm mục đồng chăn trâu, thổi khúc nhạc “vô sinh” ở đồng xanh ruộng lúa hồn nhiên. Trong cái thế giới đầy biến động của sắc trần đầy cạm bẫy, chỉ có những giây phút buông xả hết mọi ham muốn, tâm tư tĩnh lặng của đồng quê xứ sở, con người mới thật sự sống với hạnh phúc của chính lòng mình.

TIỂU KẾT

Rõ ràng, việc tiếp cận tác phẩm văn học của Thiền phái Trúc Lâm là tiếp cận nền học thuật đỉnh cao Phật giáo thời Lý - Trần nói riêng, sự tiếp nối đó hòa nhập vào dòng chủ lưu yêu nước và nhân văn của văn học trung đại Việt Nam trong lịch sử xây dựng và bảo vệ những thành quả của đất nước đạt được. Ở đây, các giá trị tư tưởng triết lý Thiền học, văn học của Thiền phái được hiển bày qua từng tác phẩm cụ thể. Chính những giá trị tư tưởng này tạo ra bản sắc riêng biệt của Thiền phái từ trong triết lý hành động cho đến tinh thần thể nhập vào đời sống hiện thực. Với quan điểm Phật tại tâm, Trần Thái Tông, Tuệ Trung, Trần Thánh Tông không chỉ xử lý tâm bằng cách biện tâm mà còn đề xuất thêm quan điểm “Hòa quang đồng trần” để con người trực tiếp đi vào đời mà làm cho đời thêm sáng tươi. Trên cơ sở lý luận đó, chủ thuyết “Cư trần lạc đạo” hình thành và đi vào thực tiễn, kể từ khi Trần Nhân Tông trở thành Sơ Tổ khai sáng ra Thiền phái Trúc Lâm.

Với chủ thuyết này, tinh thần tuỳ duyên lạc đạo của Thiền phái được triển khai mọi nơi qua sự lãnh đạo sáng suốt của Tam Tổ. Một mặt, nó xây dựng mẫu người giác ngộ ở đời bằng cách thực thi các phương thức tu Thiền như niệm Phật, sám hối, hành Thiền mà tham gia tích cực đóng góp cho đời trở nên tươi đẹp, đạo pháp thêm hưng thịnh. Mặt khác, sự thể nhập tích cực của Thiền phái để đi vào đời sống thực tiễn đã trở thành các đề tài phản ánh của các nhà văn, nhà thơ Thiền phái đã làm nên các giá trị tư tưởng Thiền học, văn học Đại Việt. Điều này cũng dễ hiểu, vì các nhà trước tác của Thiền phái luôn đặt sự tồn vong và lý tưởng giải thoát trong sự tồn vong và hưng thịnh của dân tộc Đại Việt.

Xem tất cả 399 trang.

Ngày đăng: 02/02/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí