thỉnh thoảng đó đây, chúng ta cũng bắt gặp các tác giả đời Lý nói về bản thể giải thoát có hương vị hữu tình, nhưng cũng là những hình ảnh nguyên bản trong kinh điển Đại thừa của thế giới chân tâm thường trụ, duyên sinh vô ngã, sắc không, hữu vô… trong nguyên lý vạn vật đồng nhất thể.
Trong khi đó, các tác giả Thiền phái Trúc Lâm thì rất sở trường trong việc hình tượng hóa vấn đề bản thể giải thoát luận. Điều này là có cơ sở, bởi vì các nhà mỹ học chỉ ra rằng chính các trước tác kinh điển là “ngọn nguồn vô tận để khơi gợi cảm hứng sáng tác”. Mặt khác, “ngoài giá trị gợi ý khuynh hướng sáng tác, các trước tác kinh điển còn để lại cho văn học đời sau một số hình tượng nghệ thuật trở thành nguồn thi liệu giúp cho nhà thơ, nhà văn sáng tác.” [dẫn theo 165, 166].
Đọc lại tác phẩm thơ văn của các tác giả của Thiền phái trước tác, chúng ta thấy họ phản ánh khá sinh động, hấp dẫn về thế giới bản thể giải thoát đối với người đọc. Việc quy định các thể loại luận thuyết tôn giáo, keọ vaứ ca, thơ Thiền để họ trước tác cũng phản ánh sự cảm thức sâu lắng trong tiến trình tu tập giải thoát tâm qua nguyên lý Duyên sinh vô ngã. Chính đức Phật từng nói “Ai thấy Duyên khởi là người đó thấy pháp, ai thấy pháp là người đó thấy Như Lai” được ghi lại trong nhiều bản kinh. Do đó, các thiền gia, thiền sư nhìn nhận các pháp, con người là duyên sinh vô ngã, vô thường, chúng là giả danh, thực tướng vạn pháp là “không” theo tinh thần Bát bất của Trung Quán luận mà Long Thọ diễn giải “Bất sinh diệc bất diệt, Bất thường diệc bất đoạn, Bất nhất diệc bất dị, Bất lai diệc bất khứ.” [210, 327] (H 78) (Chẳng sinh cũng chẳng diệt, Chẳng thường cũng chẳng đoạn, Chẳng một cũng chẳng khác, Chẳng đến cũng chẳng đi.) [210, 9].
Đề cập vấn đề này, tác giả Nguyễn Hữu Sơn trong bài viết Quan niệm về bản thểâ ở bộ phận “tàng trữ thi ca” trong Thiền uyển tập anh cho rằng “Xem xét bộ phận thơ ca được tàng trữ trong Thiền uyển tập anh nói riêng – trong toàn bộ triết học và văn học Phật giáo nói chung – vấn đề “bản thể” thường xuyên được đặt ra và giữ vị trí trong yếu. Điều này thể hiện trước hết bởi nó liên quan trực tiếp đến nhận thức, cách hiểu và giải thích thế giới (vật chất, hiện tượng, tâm linh…) và cuối cùng là chính các biện pháp nghệ thuật, các hình thức thể hiện in đậm sắc thái thi ca – triết học Phật giáo về vấn đề bản thể.” [218, 25].
Điểm đáng chú ý nữa là việc họ liễu ngộ các pháp và chứng ngộ giải thoát được giải trình qua các thể loại sáng tác nói trên không chỉ dành cho các đệ tử xuất gia mà phổ biến rộng khắp cho các đối tượng tiếp nhận. Việc sử dụng các thể loại như luận thuyết tôn giáo, kệ, ca, thơ Thiền mang tính chức năng và yếu tố hình tượng hoá triết lý Thiền - Phật trong sự phản ánh vấn đề bản thể giải thoát của Thiền phái là tất nhiên và hợp lý.
Từ các điểm nhìn nói trên, cảm hứng bản thể giải thoát khi đi vào thơ văn của Thiền phái Trúc Lâm đã trở nên tự nhiên hơn so với thời Lý. Nó như bức tranh hiện thực cuộc sống có nhiều đường nét chấm phá, với nhiều gam màu lung linh huyền diệu. Do đó, hành trình trở về bản thể giải thoát được giải trình bằng một ngôn ngữ, giọng điệu, cách biểu đạt, thi liệu mang tính hiện thực với bút pháp nghệ thuật cao để hấp dẫn người đọc. Hơn nữa, bản thân các nhà sáng tác thơ văn của Thiền phái là những người không thuần tuý sống trong cảnh giới Thiền đường u tịch mà thể nhập cuộc sống bụi trần mà chứng ngộ. Vì thế, nó không còn là cuộc diễn trình độc thoại giữa thầy và trò “dĩ tâm truyền tâm” nói về hình ảnh bản tâm, chân tâm thuần tịnh mà thay vào đó là các hình tượng hoá mang sắc thái thi ca nghệ thuật để phổ cập quần chúng. Rõ ràng, các nhà thơ văn của Thiền phái đã có một sự thay đổi cách nhìn trong cảm quan Thiền học, tạo ra hướng tư duy thẩm mỹ về bản thể giải thoát. Khởi đầu là Trần Thái Tông lĩnh thụ tuyên ngôn của Nam Tuyền “Bình thường tâm thị đạo” trong Niêm tụng kệ 17; Tuệ Trung khởi xướng “Bồ tát nói pháp, ta nói thực”. Tất cả đã cùng cất lên khúc nhạc với những giai điệu đa âm, cung bậc thăng trầm khác hẳn cái âm hưởng “kệ thị tịch” thuần chất Phật pháp của các nhà sư thời Lý vang lên từ cánh cửa Thiền môn thanh tịnh.
Trên bình diện tổng thể, ta thấy các bài kệ tóm thâu ý Phật pháp hay Thiền học được viết sau các bài Phổ thuyết và các bài kệ trong Khóa hư lục của Trần Thái Tông; Thượng sĩ ngữ lục của Tuệ Trung; kệ thị tịch và kệ kết thúc bài Cư trần lạc đạo phú, Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca, Sư đệ vấn đáp của Trần Nhân Tông; kệ thị tịch và các bài kệ trong Yếu minh học thuật của Pháp Loa; bài kệ kết thúc Vịnh Vân Yên tự phú của Huyền Quang, bài nào cũng hay và khá giàu hình tượng nghệ thuật với việc sử dụng thi liệu từ suối nguồn kinh điển Đại thừa và thiên nhiên hữu tình. Có bài kệ nếu ta thêm tựa đề vào thì trở thành bài thơ trữ tình diễn đạt phong vị bản thể giải thoát của Thiền. Chẳng hạn, bài
Có thể bạn quan tâm!
- Giá trị văn học trong tác phẩm của Thiền phái Trúc Lâm - 11
- Giá trị văn học trong tác phẩm của Thiền phái Trúc Lâm - 12
- Những Cảm Hứng Chính Trong Tác Phẩm Của Thiền Phái Trúc Lâm
- Giá trị văn học trong tác phẩm của Thiền phái Trúc Lâm - 15
- Giá trị văn học trong tác phẩm của Thiền phái Trúc Lâm - 16
- Cảm Hứng Quê Hương Đất Nước - Quê Hương Thiền Tông
Xem toàn bộ 399 trang tài liệu này.
kệ kết thúc đoạn mở đầu bài Phổ thuyết Tứ sơn để lại dấu ấn tâm linh cho người đọc trong cuộc hành trình tìm về bản lai diện mục với hình tượng hóa “lư nhi tam cước đại” (con lừa ba chân) (H 79) vượt qua “tứ sơn tiểu bích” (bốn núi cheo leo) (H 80) [333, 45]. Hay bài kệ thứ sáu trong phần Tụng cổ của Tuệ Trung cũng thật ấn tượng không kém gì bài kệ trên đối với người đọc khi diễn đạt Phật tính là bất sinh bất diệt, bất động bất tĩnh với hình ảnh con giun bị chặt đứt thành hai khúc, mổ bụng con rùa mà tìm kiếm “Khâu dẫn trảm vi lưỡng đoạn thì, Lưỡng đầu câu động hữu thùy tri. Vấn lai Phật tính toàn nan đắc, Cô phụ khoa trường tạng lục quy.” [333, 337] (H 81) (Chặt đứt con giun thành hai khúc, Hai đầu đều động, có ai ngờ. Hỏi rằng tính Phật không hề biết, Mổ bụng cất rùa uổng phí chưa.) [333, 343].
Khi đi vào chi tiết cụ thể của từng tác phẩm thơ văn của Thiền phái, hành trình tìm về bản thể giải thoát càng được thi hoá mang tính nghệ thuật cao qua các hình ảnh sống động, lung linh huyền ảo và thật gần gũi. Từ hình ảnh ánh trăng soi chiếu dòng sông, con thuyền lướt sóng, cho đến hạt châu ma ni lấp lánh hay gương soi huyền diệu… Tất cả như tạo nên dòng mạch cảm hứng mới rọi chiếu bản thể giải thoát, khiến người đọc dễ nắm bắt và cảm thụ một cách sâu lắng.
Ai từng đọc kinh nhà Phật thì sẽ thấy hình ảnh ánh trăng bừng sáng như rọi chiếu khắp mọi không gian bao la của vũ trụ, con người cảm nhận vẻ đẹp của trăng mà hằng sống với bản tính thanh tịnh huyền diệu của mình “Thế nhân tính tịnh, do như thanh thiên, Tuệ như nhật, Trí như nguyệt, Trí tuệ thường minh” (H 82) (Tính của thế nhân thanh tịnh, như trời quang tịnh, Tuệ như mặt trời, Trí như mặt trăng, Trí tuệ thường minh). Trăng trở thành hình ảnh biểu trưng cho trí tuệ Bát nhã thường nhiên của chân tâm người đạt đạo “Trí giả do như nguyệt chiếu thiên.” [332, 482] (H 83) (Người trí tự tại, tự do như ánh trăng trời cao.) [332, 242]. Trăng hồn nhiên, lặng lẽ bước vào thế giới thi ca Thiền phái khiến người đọc có cảm giác như đi giữa không gian ngập tràn ánh trăng. Trăng xuất hiện đến 18 lần trong toàn thể kệ thơ Thiền phái. Trăng trở thành suối nguồn của cảm hứng triết lý bản thể giải thoát và cảm hứng ngợi ca bản thể giải thoát. Trăng gợi lên cái tự tính thường nhiên, tịch tĩnh sáng trong, rọi chiếu tất cả. Trăng trở thành hình tượng nghệ thuật sinh động, đầy gợi cảm.
Ta hãy chiêm nghiệm vẻ đẹp ánh trăng bản thể diệu kỳ của thi nhân Thiền: “Tạc dạ nguyệt minh kim dạ nguyệt” (H 84) (Trăng sáng đêm qua vẫn là trăng sáng đêm nay) (Đốn tỉnh) [333, 269], “Kiến nguyệt an năng khổ tâm chỉ” (H 85) (Thấy mặt trăng rồi sao còn vất vả tìm ngón tay) (Sinh tử nhàn nhi dĩ) [333, 282]. Có khi “cõi trăng” được tác giả thi hoá thành “cõi vô tâm”: “Bao nhiêu phong nguyệt, về cõi vô tâm.” (Vịnh Vân Yên tự phú) [333, 711] (N 86). Trăng cũng bước vào cõi thơ Trần Nhân Tông với đẹp diệu kỳ, tự soi mình để hướng tâm nhìn về hành trình bản thể “Ỷ lan hoành ngọc địch, Minh nguyệt mãn hung khâm.” [333, 456] (H 87) (Tựa lan can nâng ngang chiếc sáo ngọc, Ánh trăng sáng chan hoà trước ngực.) (Đăng Bảo đài sơn) [333, 456]. Trăng không chỉ là vẻ đẹp ngoại cảnh mà còn là thế giới chân như nhiệm mầu, đầy ắp hoa xuân giữa trần thế “Nhất thiên như thuỷ, nguyệt như trú, Hoa ảnh mãn song, xuân mộng trường.” [333, 460] (H 88) (Trời trong như nước, trăng sáng như ban ngày, Bóng hoa tràn ngập cửa sổ, giấc mộng đêm xuân triền miên.) [333, 461].
Hình ảnh con thuyền Bát nhã hay chiếc bè sang sông trong kinh điển Phật giáo thường được biểu đạt cho phương tiện chuyên chở người mê cập bến bờ giải thoát. Khi đi vào thơ văn của Thiền phái, nó trở thành hình ảnh chiếc thuyền con, một khách hải hồ lướt sóng nước, chân trời mênh mông “Tiễu đĩnh trường giang đãng dạng phù [333, 244] (H 89) (Thuyền nhỏ lênh đênh trên sông dài) [333, 244], hay “Nhất diệp biển chu hồ hải khách” (Một lá thuyền con, một khách hải hồ) [333, 684]. Rõ ràng, các tác giả của Thiền phái là những người trần tục gặp nhau giữa bến bờ sinh tử, nhưng tâm hồn họ luôn khai phóng của người đạt đạo. Đó là những con người lướt trên sóng gió để an trú tâm giữa cõi “thanh phong minh nguyệt” (trăng thanh gió mát), nghe được tiếng vi vu của gió trời, tiếng nhạn vừa vụt thoáng qua. Chính trong những giây phút thanh tịnh của chân tâm mà thiền gia và thi nhân hội ngộ khắc hoạ những vần thơ mô tả cuộc hành trình về bản thể giải thoát thật tuyệt đẹp và huyền diệu: “Hồ hải sơ tâm vị thuỷ ma, Quang âm như tiễn hựu như thoa. Thanh phong minh nguyệt sinh nhai túc, Lục thuỷ thanh sơn hoạt kế đa.” [333, 256] (H 90) (Chí xưa hồ hải chưa từng khuấy, Tên vút, thoi đưa, tháng lại ngày. Gió mát trăng thanh, sinh nhai đủ, Non xanh nước biếc, thú vui đầy. Giương buồm, sáng sớm băng mù
thẳm, Nâng sáo, chiều hôm giưỡn khói mây. Dấu tích Tạ Tam nay đã bặt, Thuyền không gối bãi luống còn đây.) [333, 256].
“Hồ hải sơ tâm” là chân tâm của con người, cũng là tự tính uyên nguyên của vũ trụ giữa không gian vô cùng, thời gian vô tận. Và như thế “thuyền Không” là con thuyền vừa thực, vừa hư vẫn tự tại gương buồm lướt sóng nước, với tiếng sáo vi vu, đi qua những sớm mai chiều hôm trong cõi “sắc không” nhiệm mầu của trần thế. Vậy là từ chiếc “thuyền con” đến chiếc “thuyền không”, mà con người an nhiên cập bến bờ giải thoát như lời Nguyễn Lang nhận định “Không những đứng về phương diện tư tưởng mà đứng về phương diện văn học, hình ảnh một chiếc thuyền trống không, lặng lẽ vượt biển dưới ánh trăng tịch tĩnh Lăng Già là một hình ảnh mầu nhiệm” [145, 126].
Sự nhiệm mầu đó nằm ở ngay cảnh giới thực tại bụi trần để hằng sống với tự tính uyên nguyên bao la của trời đất. Vì thế, cảm thức giải thoát của thi nhân Thiền phái cứ tiếp tục trào dâng với những hình ảnh an nhiên tự tại nhưng cũng đầy chất siêu phóng trào lộng: “Nhân gian tận kiến thiên sơn hiểu, Thùy thính cô viên đề xứ thâm.” [333, 228] (H
91) (Người đời chỉ thấy nghìn non sáng, Tiếng vượn rừng sâu ai biết không?) (Phỏng Tăng Điền đại sư) [333, 228], hay “Thượng đầu đả quá hồ hà hữu, Nhất cá nê ngưu nhậm đảo ky.” [333, 230] (H 92) (Vượt qua mọi “cái không chi cả”, Cưỡi ngược trâu bùn mặc sức ta.) (Điệu tiên sư) [333, 231], hoặc “A thùy hội đắc nương sinh diện, Thủy tín nhân thiên tổng giả danh.” [333, 246] (H 93) (Khuôn trăng người mẹ ai hay biết, Trời nọ người kia thảy giả danh.) (Thời tiết an định) [333, 246]... Thực chất đây chỉ là cách biểu đạt khác nhau về sự cảm hứng bản thể giải thoát mà Tuệ Trung say sưa biến tấu qua nhiều cung bậc lúc trầm, lúc bỗng theo nhịp đập trái tim con người trần trục.
Cũng cung bậc ấy, Trần Thánh Tông có nhiều bài thơ, tứ thơ nói về bản lai diện mục từ khi ông bước vào làng Thiền như trong bài Tự thuật:
“Tự tòng quán giốc nhập Thiền lưu, (Từ phen để chỏm, nhập làng Thiền, Đả ngõa toàn quy một ngoại cầu. Đập ngói dùi rùa dốc chí bền.
Nhận đắc bản lai chân diện mục, Nhận được khuôn trăng như nó có, Đáo đầu hà xứ bất hưu hưu.” Đến đâu mà chẳng thấy hồn nhiên.) [333, 406] (H 94) [333, 408]
Thấy được bản lai diện mục là thấy được tự tính giác ngộ, là nghe được “Cá trung khúc phá vô nhân hội, Duy hữu tùng phong họa thử âm.” [333, 406] (H 95) (Khúc nhạc trong lòng, không kẻ hiểu, Hòa âm họa có gió thông ngàn.) [333, 408]. Đây cũng là hình tượng “Nương sinh diện” chỉ cho bản thể giải thoát mà trong bài Độc Đại Tuệ ngữ lục hữu cảm, ông viết “Nhất triêu thức phá nương sinh diện, Tỷ không nguyên lai một bán biên.” [333, 405] (H 96) (Một mai nhìn thấy dung nhan mẹ, Mới biết khuôn trăng khuyết một bên.) [333, 405]. Ý thơ thật hàm súc, cô đọng, kiệm lời nhưng diễn tả cả thế giới nhị nguyên khi con người chưa nhìn thấy rõ dung nhan “mẹ” và thế giới chân như tròn đầy của “mẹ” cùng song hành một lúc trong một câu thơ.
Như vậy, giữa Phật và chúng sinh, sinh tử và Niết bàn, phiền não và Bồ đề có đối đãi chỉ là do cái nhìn có vọng kiến khởi lên “Niết bàn sinh tử mạn la lung, Phiền não Bồ đề nhân đối địch.” (333, 272) (H 97) (Niết bàn, sinh tử buộc ràng suông, Phiền não, Bồ đề đối nghịch dối.) (333, 276), thực chất chỉ là thế giới chứng ngộ diễn bày khi con người khởi lên cái nhìn chánh kiến tuệ giác “Xuân lai tự thị xuân hoa tiếu, Thu đáo vô phi thu thủy thâm.” (333, 272) (H 98) (Xuân đến tự nhiên hoa xuân nở, Thu sang đâu chẳng nước thu trong) (Phật tâm ca) [333, 276] mà Tuệ Trung muốn bày tỏ. Hay nói cách khác, đó là thế giới thực tại thường nhiên “Sinh như trước sam, Tử như thoát khố.” [333, 415) (H 99) (Sống như mặc áo, Chết như cởi quần.) [333, 416] để rồi tung hứng hoát nhiên đại ngộ “Bát tự đả khai phân phó liễu, Cánh vô dư sự khả trình quân.” [333, 415] (H 100] (Mở toang tám chữ mà trao, Có đâu dư chuyện ngõ hầu trình anh.) [333, 416] mà Trần Thánh Tông hát khúc ca Sinh tử trước một ngày giã từ trần thế.
Bát tự là chính là “Sinh diệt diệc dĩ, tịch diệt vi lạc.” (H 101) (Sinh diệt là diệt rồi, thì tịch diệt là vui.) chỉ cho “Tuyết sơn bát tự” (H 102). Trong bài Hữu cú vô cú, Trần Nhân Tông viết: “Bát tự đả khai, Toàn vô ba tị.” [333, 487] (H 103) (Tám chữ mở ra, Không còn khó nghĩ.) [333, 490]. Trong văn cảnh bài thơ này thì “bát tự” có thể là tám chữ mở đầu bài thơ “Sinh như trước sam, Tử như thoát khố”, nó không ngoài ý nghĩa trên. Đây chỉ là cách diễn đạt khác về bản thể giải thoát rất hình tượng và gần gũi người Việt hơn, trên hết là nó đẩy đưa cái hương vị Thiền của bài thơ đi xa hơn, có thể vào nơi sâu thẳm nhất của tâm thức người đọc.
Rõ ràng, các tác giả Thiền phái từ trong cuộc sống tùy duyên mà vui với đạo, đã tạo ra những đoạn văn, bài kệ, bài ca, bài thơ với những cung bậc, tiếng nói “đa thanh”, như lời nhận định tinh tế của Trần Thị Băng Thanh trong một bài viết Huyền Quang và những trang đời nhiều huyền thoại, những vần thơ nhiều hàm nghĩa. [251, 78]. Theo chúng tôi, đó là cách diễn đạt bản thể giải thoát bằng hình tượng, có khi tỏ ra nghiêm cẩn, lúc thì trầm lặng, hay bay bổng trào lộng, khi thì tự tại, mộc mạc bình dị hết mức có thể. Nghĩa là cảm thức Thiền học của các nhà trước tác Thiền phái Trúc Lâm có sự thay đổi cách nhìn với biên độ rộng hơn so với các nhà thơ - thiền sư đời Lý, đồng thời cuộc sống trần tục mà giải thoát đã tạo cảm hứng sáng tạo trong sáng tác vừa mang tính triết lý, vừa có tính nghệ thuật của mỹ học Thiền “rất riêng”.
Trần Thái Tông với cảm hứng sám hối, Tuệ Trung với cảm hứng phóng cuồng, Trần Thánh Tông với cảm hứng trần thế tùy tục, Trần Nhân Tông với cảm hứng tùy duyên ngộ đạo, Pháp Loa trung thành cảm hứng Phật ý kinh điển, Huyền Quang với cảm hứng giải thoát trong trời đất bao đầy thế sự; Tất cả đã tạo ra những áng văn, vần thơ tuyệt tác đầy hương vị giải thoát, thấy rõ bản tính thường nhiên bằng đôi mắt “kiến tính” thật nhẹ nhàng thi vị như thúc giục con người hướng về phía trước. Để rồi Huyền Quang mộng thấy Quan Âm vào trong cỏ, ngủ tít canh ba sẽ thấy chính mình, ngồi ngắm hoa rụng, ngoảnh nhìn đời bụi bặm như là cuộc hành trình tìm về bản lai thanh tịnh mà ông thường hát khúc ca quen thuộc “Phản quang trần thế giới, Khai nhãn túy mang mang.” [333, 682] (H 104) (Ngoảnh nhìn đời bụi bặm, Mở mắt dường say sưa.) [333, 682].
2.3.2. Cảm hứng cõi thiên nhiên Phật nhiệm mầu
Theo tác giả sách Văn học Phật giáo Thời Lý - Trần – Diện mạo và đặc điểm thì: “Đối với những sáng tác văn chương chịu ảnh hưởng Nho giáo, có thể nói, thiên nhiên là đối tượng để người sáng tác bày tỏ, chia sẻ tâm trạng, gởi gắm nỗi niềm, thiên nhiên là hình chiếu của tâm trạng vì “Người buồn cảnh vật có vui bao giờ” (Nguyễn Du), thiên nhiên là bầu bạn tri kỷ tri âm với con người. Còn những sáng tác văn chương chịu ảnh hưởng Phật giáo thì giữa thiên nhiên với con người có sự giao cảm, cộng hưởng, hòa nhập, nhất là khi con người đạt đến cái tâm trong suốt, vắng lặng. Lúc đó, con người thể nhập cái tâm của mình làm một với cái tâm bản thể chân như vũ trụ, đất trời vạn vật.” [165, 235]. Đây cũng
là lý do mà các nhà nghiên cứu trước đây như Bùi Văn Nguyên, Đinh Gia Khánh, Lê Trí Viễn, Kiều Thu Hoạch, Nguyễn Huệ Chi, Thích Mãn Giác, Nguyễn Hữu Sơn, Đoàn Thị Thu Vân, Thích Phước An… qua các chuyên luận đều phản ánh hình ảnh thiên nhiên mang tính biểu tượng bởi một cảm quan Phật giáo Thiền tông, hoặc hình ảnh thiên nhiên hiện thực với vẻ đẹp sinh động ngập tràn thẩm mỹ thông qua cảm quan Thiền học để rung cảm, phản ánh.
Như vậy, thiên nhiên là nguồn cảm hứng vô tận cho các thiền gia, thiền sư Thiền phái Trúc Lâm sáng tác không chỉ để giải bày thế giới tâm thức chứng ngộ nói trên, mà nó còn phản ánh thế giới thiên nhiên Phật nhiệm mầu qua thế giới tự chứng tự nội, thực tại bây giờ và tại đây của người chứng đạo. Nghĩa là từ trạng thái thăng chứng thuần tịnh tuyệt đối của tâm mà con người sinh hoạt với thân khẩu ý hành cùng nhau tương duyên, tương tác, tỉnh thức mà không hề đối nghịch, cũng như không hề hủy hoại bản sắc cá biệt của mỗi hiện hữu.
Nói theo ngôn ngữ của kinh Hoa Nghiêm, đó là trú xứ của những ai mong mỏi bước vào trong vinh dự của gia tộc Như Lai – một dòng sống với động mạch tâm linh bất diệt. Và nó không đơn giản chỉ là một thế giới u huyền như người ta lầm tưởng mà trú xứ ấy vốn hiển hiện trần gian, một trú xứ rất thực mà kinh bảo rằng: “Khi Phật nhập vào Tam muội (Samàdhi), bỗng phút chốc, cái túp lều Ngài đang ngự đột nhiên tan biến và trải rộng đến tột cùng bờ mé của vũ trụ; nói khác đi, Phật là vũ trụ, vũ trụ là Phật. Màu hắc ám của rừng Thệ Đa (Jetanana) nơi trần gian, vẻ trần tục của đống cỏ khô thiết tòa sư tử mà đức Thế Tôn đang ngự thuyết pháp, một nhóm khất sĩ lam lũ đang nghe kinh, trong cái thực tại không bản ngã – tất cả đều hoàn toàn tan biến ở đây.” [268, 1].
Với thực tại duyên khởi tính mà các nhà trước tác của Thiền phái đã diễn trình thế giới thiên nhiên chính là cõi Phật nhiệm mầu, xuất phát từ trong thế giới hiện thực “bây giờ và tại đây” qua cái nhìn duyên khởi từ sự “thăng chứng tâm linh” mà không phải là sự “tùy thuộc phát sinh” trên lăng kính vật lý. Như thế, chúng ta có thể giải mã những áng văn, vần thơ của các tác giả Thiền phái từ nguồn cảm hứng nói trên. Cụ thể, Trần Thái Tông đã viết về thế giới Phật được chuyển hóa từ thế giới thực tại “… Xứ xứ đại quang minh tạng; cơ cơ bất nhị pháp môn. Trực nhiên ám khứ minh lai; quản thậm vân già nguyệt