Giá trị văn học trong tác phẩm của Thiền phái Trúc Lâm - 19


lục tặc giao công; bất ưu lão bệnh tử lai, quản tham tửu sắc tài khứ…” [333, 53] (H 184) (Các người, nào khác gì con rối; đều nhờ tơ, sợi kéo lôi. Đùa qua giỡn lại, giống sống mà thôi; buông thả, thu hồi, thực là xác chết. Bắt chước nhau lấy muôn nghìn mưu chước; đều duyên do sáu giặc tranh giành. Không lo già bệnh chết đến gần; tham tiếc rượu, sắc, tài đi mất…) [333, 55].

Tương tự, bốn bài Phổ thuyết của Pháp Loa: Khuyến xuất gia tiến đạo ngôn, Trúc Lâm đại Tôn giả thượng toà thính sư thị chúng, Thượng thừa tam học khuyến chúng phổ thuyết, Yếu minh học thuật, bằng trái tim Thiền định, khối óc tuệ giác, sử dụng bút pháp vừa chính luận, vừa tả thực hết sức sống động, văn cú giàu hình ảnh so sánh, Tôn giả mời gọi mọi người hãy tỉnh thức, sống theo đạo lý Thiền tông mà an trú trong thế giới an lành, hạnh phúc thật sự: “Chư tiểu tử! Ký nhập tùng lâm, trước nhất tử địa. Đồ hoa nhi dĩ cầu danh dự, bất phục tham thủ để xứ. Ná cá thị chư Phật, Tổ, sư hạ thủ xứ; ná cá thị nhị thừa, ngoại đạo dụng tàm xứ. Đồ tự nhật lai nguyệt vãng, dịch dịch tha cầu; nhất đán bất huý, tương nại chi hà!” [333, 666] (H 185) (Này, các môn đệ! Đã vào rừng sâu, nên cắm lấy một miếng đất. Luống chỉ chăm vào hoa lá để cầu tiếng tăm, không quay lại cân nhắc, lựa chọn nơi các vị Phật, Tổ, sư đã trực chỉ, nơi nào là nơi đám nhị thừa và ngoại đạo dụng tâm; luống tự để cho ngày tháng qua lại, loay hoay tìm kiếm những đâu, một mai nằm xuống thì biết làm thế nào? ) [333, 667].

3.1.3.2. Kệ thơ Thiền

Hiện có nhiều ý kiến khác nhau khi đề cập đến tên gọi thể loại này. Sách Văn học Phật giáo thời Lý – Trần: Diện mạo và đặc điểm đã tổng kết các ý kiến của các nhà nghiên cứu về thể loại này, từ đó giới thuyết Keọ vaứ thơ Thiền gồm các loại như sau: “Loại thứ nhất là kệ (kệ tán, kệ tụng, kệ ngộ giải). Những bài kệ này trực tiếp trình bày giáo lý, tư tưởng nhà Phật bằng hình thức ngắn gọn, cô đúc, chuyển tải những nội dung súc tích, những tư tưởng uyên áo của Thiền học, Phật học. Về nguồn gốc kệ là những bài văn vần (thơ) thường là bốn câu, có khi tám câu với nhiệm vụ thâu tóm một cách cô đọng lời kinh bằng văn xuôi đã giảng thuyết ở phần trước. Chính từ ghép “kinh kệ” đã nói lên mối quan hệ gắn bó đó; Loại thứ hai là kệ được thi vị hoá. Có thể xem đây là thơ triết lý bởi lẽ về hình thức, các tác giả đã sử dụng ngũ ngôn hoặc thất ngôn, với ngôn ngữ lung linh, đầy hình ảnh đẹp và gợi cảm, giàu chất thơ, nhưng đằng sau cái vỏ hình thức ngôn ngữ ấy ẩn tàng triết lý


nhiệm mầu của nhà Phật; Loại thứ ba là thơ mang cảm hứng Thiền học. Đây là những bài thơ cảm xúc trữ tình nhưng nội dung có đề cập đến tâm, Phật, sinh, tử, Niết bàn, chân như, sắc không; Loại thứ tư là thơ tức cảnh sinh tình, bộc lộ cảm xúc tâm trạng của thiền sư đối với cái lung linh, mỹ lệ của ngoại cảnh thông qua cảm quan Thiền học.” [165, 123 -131].

Các ý kiến nói trên, chỉ là sự phân loại mang tính chất tương đối. Chúng ta cũng khó mà phân chia rạch ròi, chính xác chuyên biệt về các dạng thơ Thiền. Sự phân loại ấy nhằm để so sánh với các thể loại khác trong văn học Phật giáo. Tuy vậy, thể loại keọ vaứ thơ Thiền được các tác giả sử dụng nhiều trong văn học Phật giáo Lý - Trần. Khoá hư lục tác phẩm của Trần Thái Tông đã sử dụng thể loại keọ vaứ thô khá rõ nét. Thượng sĩ ngữ lục của Trần Tung, Thiền uyển tập anh của nhiều tác giả cũng đều có sự kết hợp các thể loại này. Những tác phẩm vừa nêu trên đã sử dụng ba lối văn: tản văn, biền văn vận văn, trong đó thể kệ thơ Thiền (thuộc vận văn) là thể loại được sử dụng nhiều nhất.

Các bài kệ thơ Thiền xuất hiện khá nhiều trong Khoá hư lục, không kể phần kệ trong Niêm tụng kệ, đã có 21 bài kệ. Cuối mỗi bài Phổ thuyết đều có bài kệ thô nhằm đúc kết nội dung cốt lõi của Thiền vừa được giảng bằng một thể thơ Đường luật, mà thể thơ này vốn rất nghiêm ngặt về niêm, luật, vần, đối, nhịp; với ngôn ngữ khúc triết, ý tại ngôn ngoại, gợi nhiều hơn tả, nhờ thế mới đáp ứng hết diệu lý nhiệm mầu của giáo điển Thiền tông mà người viết muốn truyền đạt. Vì vậy, những bài kệ thô này có một ngôn ngữ diễn đạt riêng, người đọc phải có chìa khoá để giải mã thì mới thấu đạt. Các bài kệ khác của các bài văn như Giới sát sinh văn, Giới thâu đạo, Giới sắc văn, Giới vọng ngữ văn, Giới tửu văn… nhất là các bài kệ của các bài văn thuộc Lục thời sám hối khoa nghi đã đẩy đưa ông trở thành nhà thơ sám hối. Một giọng thơ lạ độc đáo giữa dòng thơ Thiền, vốn rất thiên về sự khai phóng hoà quang đồng trần, tuỳ duyên tuỳ tục.

Ngoài các bài kệ ở Ñoái cô Tụng cổ trong Tuệ Trung Thượng sĩ ngữ lục, Thượng sĩ cũng có đến 5 bài mang hình thức kệ Kiến giải, Thị học, Thị chúng, Thị đồ, Khuyến thế tiến đạo trong số 49 bài thơ mà Thơ văn Lý - Trần ghi nhận. So với các bài Nguyên hoả của Khuông Việt; Tâm không của Viên Chiếu, Thị đạo của Trường Nguyên; Hữu tử tất hữu sinh của Trì Bát… được sáng tác ở đời Lý thì những bài kệ của các nhà trước tác Thiền phái vào đời Trần đều có một nội dung và hình thức diễn đạt về việc răn dạy đệ tử trước khi

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 399 trang tài liệu này.


tịch diệt hay sách tấn đồ chúng tu hành. Ở đó, thế giới nội tâm của các thiền sư được giải bày qua các bài thi kệ, ngập tràn cảm xúc, thi hứng. Đọc bài Dần thì cảnh sách kệ, Hiến hương kệ, Hiến hoa kệ,… của Trần Thái Tông, mỗi bài có một nét đẹp của thế giới thẩm mỹ riêng biệt, đôi khi tách ra khỏi vườn Thiền thì có thể hoà nhập vào vườn thơ chung của dân tộc. Chẳng hạn, khi đọc Thử thời vô thường kệ sẽ thấy rõ: “Miết nhãn ô luân tái xuất chấn, Hồi đầu hy ngự hựu dương ly. Thân tham hủ mộc tẩm vưu thục, Na tỉnh cao hoè ảnh dị di. Thúc thốt hoa âm trùng phục đảo, Tuấn tuần khuẩn mệnh thịnh hoàn suy. Chư nhân hạp tảo hồi quang chiếu, Tự khổ khu trì lược lộ ky.” [333, 182] (H 186) (Chớp mắt vừng ô vừa mới mọc, Quay đầu bóng nhật đã tròn xoe. Chỉ ham giấc ngủ say mê mãi, Nào biết quang âm thấm thoát đi. Phút chốc hoa tươi rồi lại héo, Quanh co mệnh nấm thịnh liền suy. Ai ơi xin hãy quay đầu lại, Rong ruỗi đường mê mãi thế chi!) [333, 182].

Giá trị văn học trong tác phẩm của Thiền phái Trúc Lâm - 19

Thơ hay kệ, khó mà phân biệt. Bằng sự trực cảm tâm linh, tác giả đã hoà nhập giữa trời đất bao la có giông tố bão bùng, mây đen phủ kín, gió xô sóng vỗ lớp lớp cuộn ghềnh, phút chốc trời xanh, trăng sáng, sóng lặng. Tĩnh hay động, ai biết? Duy chỉ ngư ông an nhiên tự tại giữa dòng đời. Rõ ràng, đằng sau lớp võ ngôn từ giàu hình ảnh, hết sức gợi cảm, được sáng tác bằng thể thơ ngũ ngôn, thất ngôn, lại ẩn chứa triết lý Phật giáo, tất cả đã khiến đọc dễ dàng tiếp nhận để thực nghiệm tâm linh. Hay khi đọc Sư đệ vấn đáp của Trần Nhân Tông, ta bắt gặp hình ảnh đệ tử hỏi “Như hà thị hiện tại Phật gia phong?” (Thế nào là gia phong của Phật hiện tại Phật?) được Trúc Lâm trả lời: “Bạch thuỷ gia phong mê hiểu yến, Hồng đào tiên uyển tuý xuân phong.” [333, 494] (H 187) (Nước trắng mênh mông chim én bạc, Vườn tiên đào thắm gió xuân say.) [333, 496].

Như vậy, các bài kệ của các nhà trước tác Thiền phái được thi vị hoá hơn nữa. Đây là sự kế thừa trong sự biến chuyển đổi thể loại từ kệ sang thơ từ đời Lý sang đời Trần khá rõ nét. Nếu các tác phẩm văn học Phật giáo đời Lý có những câu kệ, bài kệ được thi vị hố trong Tham đồ hiển quyết của Viên Chiếu; Nhất nhật hội chúng của Tịnh Không; Cáo tật thị chúng của Mãn Giác… thì sang đời Trần, các tác phẩm Thiền phái có những câu thơ, bài thơ đúng nghĩa thơ trong Ngữ lục vấn đáp, Niêm tụng kệ, Lục thời sám hối khoa nghi của Trần Thái Tông; Chân tâm chi dụng, Sinh tử… của Trần Thánh Tông; Vạn sự quy như, Thế thái hư huyễn, Nhập trần, Sinh tử nhàn nhi dĩ, Đối cơ, Tụng cổ… của Tuệ Trung; Đề cổ


Châu Hương thôn tự, Đại Lãm Thần Quang tự… của Trần Nhân Tông; Nhập tục luyến thanh sơn của Pháp Loa; Tặng sĩ đồ tử đệ, Diên Hựu tự… của Huyền Quang …

Bên cạnh đó, còn có nhiều bài thơ mang cảm hứng Thiền học chiếm một số lượng khá lớn trong thơ kệ của Thiền phái so với các bài thơ của các thiền sư đời Lý. Nội dung trình bày đến bản thể giải thoát, các vấn đề sinh tử, Niết bàn, chân như, sắc không, hữu vô… Chúng ta có thể thấy một vài bài thơ ở đời Lý như Ngôn hoài của Không Lộ; Hưu hướng Như Lai của Quảng Nghiêm; Hoa điệp của Giác Hải… phát biểu về đề tài này. Như là sự tiếp nối “truyền đăng tục diệp”, các thiền sư của Thiền phái cũng trình bày sở đắc chứng ngộ qua sự minh giải các vấn đề thuộc bản thể giải thoát nói trên. Tuệ Trung trước tác một loạt bài: Thủ nê ngưu, Phỏng Tăng Điền đại sư, Vấn Phúc Đường đại sư, Ngẫu tác…; Trần Thánh Tông sáng tác các bài như Độc Đại Tuệ ngữ lục hữu cảm, Tự thuật, Độc Phật Đại minh lục hữu cảm; Trần Nhân Tông có các bài như Sơn phòng mạn hứng, Đại Lãm Thần Quang tự, Hữu cú vô cú…; Pháp Loa với bài Thò tòch; Huyền Quang có các bài như Yên Tử sơn am cư, Thạch thất, Đề Động Hiên đàn việt giả sơn… Mỗi bài của mỗi tác giả có một cách diễn đạt riêng biệt khi thì trực tiếp, lúc thì gián tiếp trình bày cảm hứng Thiền học về sở đắc, sở chứng nhưng điều xuất phát từ điểm nhìn từ sự chứng ngộ thực tại duyên sinh vô ngã, vô thường.

Chẳng hạn, bài Đề Cổ Châu hương thôn tự, Trần Nhân Tông nhìn nhận “số đời” thật mờ mịt trước sự sinh lão bệnh tử khi về thăm công chúa Thiên Thuỵ ngã bệnh nặng. Thế nhưng, một người tỉnh thức thì có cái nhìn thấu đạt vạn pháp là duyên sinh để chuyển hoá tâm thức, nhằm bước ra khỏi vòng hệ luỵ “ái luyến”. Đây cũng chính là cái nhìn của đôi mắt tuệ giác mà tác giả diễn giải bằng hình ảnh “Thời tình lưỡng hải ngân.” (H 188) (Tình trong đôi mắt trong). Tại đây, “ma quân” sáu căn không nhiễm sáu trần, “cõi Phật” hoá hiện ngập tràn sắc xuân: “Thế số nhất sách mạc, Thời tình lưỡng hải ngân. Ma cung hồn quản thậm, Phật quốc bất thăng xuân.” [333, 454] (H 189) (Số đời mờ mịt cả, Tình trong đôi mắt trong. Cung ma nếu quản chặt, Cõi Phật xuân không cùng.) [333, 454]. Đọc bài Đề Động Hiên đàn việt giả sơn, ta thấy, Huyền Quang cũng tự tại giải thoát với một tâm thức thanh tịnh, không còn hệ luỵ tục trần: “Hoa mộc di duyên chủng tác sơn, Lung yên trạo nguyệt, lạc hoa hàn. Tòng tư niệm lự đô vô tục, Doanh đắc thanh phong nhất chẩm


an.” [333, 695] (H 190) (Quanh quất cây leo, núi chất chồng, Hoa rơi lạnh giữa khói trăng lồng. Từ nay niềm tục thôi vương vấn, Chiếc gối an nhàn trước gió trong.) [333, 695].

Chưa dừng tại đó, ta còn thấy các bài thơ Thiền bộc lộ cảm xúc tâm trạng thực chứng giác ngộ được giải trình thông qua vẻ đẹp thiên nhiên đẹp đẽ, huyền ảo bằng một cảm quan Thiền học. Nguồn cảm hứng sáng tạo trước cảnh vật hữu tình, thiên nhiên hoá cảnh Phật là sở trường sáng tác của các thiền sư từ đời Lý đến đời Trần mà các nhà nghiên cứu gọi là thơ tức cảnh sinh tình. Bài Ngư nhàn của Không Lộ (Gần đây, theo PGS.TS. Lê Đức Niệm nêu ra, rồi ý này được PGS. Bùi Duy Tân viết lại đăng trên Tạp chí Văn học số 5 – 2002, tr. 85 - 86 thì bài thơ này chính là của Hàn Ô (842 – 923) đời Đường ở Trung Hoa với thi đề là “Túy trước”, chứ không phải là Không Lộ (1016 -1094) đời Lý ở Việt Nam) và Cáo tật thị chúng của Mãn Giác đời Lý là một trong những bài tiêu biểu. Nhưng dấu ấn lớn về loại thơ này vẫn là các tác giả thiền sư ở đời Trần thuộc phái Thiền Trúc Lâm như bài Ký Thanh Phong am tăng Đức Sơn của Trần Thái Tông; Đề Huyền Thiên động, Hạnh Thiên Trường hành cung của Trần Thánh Tông; Hoạ Hưng Trí thượng vị hầu, Giang hồ tự thích… của Tuệ Trung; Xuân hiểu, Động Thiên hồ thượng, Xuân cảnh… của Trần Nhân Tông; và nhiều bài thơ khác của Huyền Quang đạt đến đỉnh cao của thi ca như Cúc hoa (6 bài), Chu trung, Phiếm chu, Trúc miên, Ngọ thuỵ, Nhân sự đề Cứu Lan tự, Địa lô tức sự…

Bài Chu trung, Phiếm chu là một thí dụ điển hình. Cả hai bài đều lấy hình ảnh con thuyền làm nguồn cảm hứng để diễn đạt thế giới thực tại hiện hữu cùng song hành với thế giới siêu nghiệm trong một không gian biển trời bao la, một thời gian vô biên để đến nơi cùng tận. Con thuyền của Huyền Quang là con thuyền vượt thoát khổ đau mà kinh điển nhà Phật gọi là thuyền Bát Nhã. Người đọc sẽ cảm nhận sự thanh thoát, sự huyền diệu giữa biển trời mênh mông có sự hiện hữu của một chiếc thuyền con lướt qua bể đời trầm luân, xa xa chỉ một cánh chim hải âu trắng điểm mở lối cho cuộc hành trình về miền giải thoát “Giang thuỷ liên thiên nhất âu bạch.” (Chu trung) [333, 684] (H 191) (Chim âu một cánh trắng phau.) [333, 684]. Đến bài Phiếm chu thì người đọc không chỉ biết cảm nhận bằng ngôn ngữ thi ca mà còn tiếp cận được thế giới chứng thực nội tâm luôn hoà quyện giữa cuộc đời xao động với sóng nước dạt dào và cõi “sắc không” an tịnh với “Nguyệt lạc


ba tâm giang mãn sương.” [333, 694] (H 192) (Trăng rơi đáy nước, đầy sông sương mờ.)

[333, 694].

Nhìn chung, có sự chuyển dịch về nội dung chuyển tải và hình thức thể loại trong kệ và thơ Thiền từ đời Lý đến đời Trần, cụ thể là Thiền phái Trúc Lâm. Về nội dung chuyển tải, chúng tôi nhất trí với ý kiến tổng kết là kệ và thơ Thiền trực tiếp hay gián tiếp bàn về giáo lý Phật giáo, triết lý bản thể giải thoát vẫn là đa số với 321 trên tổng số 405 đơn vị tác phẩm, chiếm tỷ lệ gần 80 %. Trong khi đó, kệ và thơ Thiền mang nội dung cảm xúc trữ tình, cảm hứng Thiền chỉ chiếm 84 trên tổng số đơn vị tác phẩm với tỷ lệ 20%. Nếu so sánh giữa kệ và thơ Thiền đời Lý với đời Trần qua sự phân loại và thống kê, thơ Thiền đời Lý thường thiên về bày tỏ giáo lý nhà Phật, tần số xuất hiện rất cao (tỷ lệ 94%), còn đời Trần thì nội dung này lại thấp hơn (tỷ lệ trên 70%) [165, 131]. Còn thơ Thiền thiên về cảm xúc trữ tình thì ngược lại, văn học đời Lý chỉ chiếm khoảng 6%, văn học Phật giáo đời Trần thì chiếm khoảng 30% như đã có nhà nghiên cứu thống kê. Điều đó lý giải là khi cảm xúc trữ tình trong thơ Thiền ngày càng tăng thì biên giới thơ Thiền sẽ được mở rộng và lúc này, thơ Thiền “tiến gần tới các thể loại thơ trữ tình hay thơ tự sự thì hình thức thể loại của nó càng mờ nhạt đi những dấâu ấn riêng biệt mà mang hình thức gần gũi với các thể loại thi ca khác.” [102, 47]. Nhiều bài thơ Thiền của các tác giả Thiền phái .v.v… là những minh chứng cho ý kiến trên.

Về mặt hình thức thể loại, nếu đa số kệ và thơ Thiền đời Lý thường được viết theo thể thơ cổ thể hay lối thường đoản cú, hoặc tứ ngôn, ngữ ngôn, lục ngôn phóng khoáng về niêm luật vần điệu, câu chữ, nói chung là mang tính chất mở thì thơ Thiền đời Trần, tiêu biểu là Thiền phái Trúc Lâm đa phần lại được viết theo thể luật Đường tứ tuyệt hoặc bát cú (thoảng hoặc mới gặp vài bài trường thiên cổ phong) nên khuôn khổ, quy phạm và nghiêm ngặt hơn theo yêu cầu đặc trưng của thể loại [165, 132].

3.1.3.3. Ngữ lục

Sách Tự điển Phật học Huệ Quang ghi “Các sách ghi chép lời thuyết pháp hoặc lời khai thị… của các Tổ sư Thiền tông. Thông thường các thiền sư nói pháp không dùng lời văn hoa mà dùng những từ ngữ bình dị để chỉ thẳng tông yếu, thị giả và các đệ tử theo học liền ghi chép sưu tập thành sách, gọi là Ngữ lục. Sau khi Lục Tổ Huệ Năng đầu đời Đường,


Trung Quốc, có Pháp Bảo Đàn kinh thì Ngữ lục các nơi lần lượt xuất hiện. Từ thời Ngũ đại, Triệu Tống về sau, chế độ của các tùng lâm Thiền tông thành lập, trong đó dưới thiền sư Trụ trì có lập chức Thư ký với nhiệm vụ ghi chép ngôn hạnh của thiền sư, sau này biên tập thành Ngữ lục như Mã Tổ Đạo Nhất thiền sư ngữ lục, Triệu Châu Tùng Thẩm thiền sư ngữ lục…” [15, 3081]. Ý kiến của Nguyễn Huệ Chi về vấn đề xác định tác giả đích thực của các đoạn văn đối đáp qua lại giữa thầy và trò đã được ông lý giải ở phần Khảo luận văn bản trong Thơ văn Lý - Trần, tập1 [332, 166-170]. Theo thiển ý của chúng tôi, các Ngữ lục được bảo lưu cho đến ngày nay của Thiền tông Trung Hoa, hay Việt Nam đều do các đệ tử sưu tập, hoặc Ban thư ký trong chùa biên tập chỉnh sửa nên lời văn đối đáp trong văn bản của các tác phẩm này có sự thay đổi. Nếu lúc đầu Ngữ lục được diễn đạt bằng khẩu ngữ thì sau đó được nhuận văn và trở nên những câu văn xuôi hoàn chỉnh; hoặc được diễn đạt thành những lời thơ bóng bẩy, giàu hình ảnh văn chương, với lối nói ẩn dụ kín đáo nhằm đánh mạnh vào tâm thức người học bừng tỉnh để trực nhận chân lý đằng sau lớp vỏ ngôn từ.

Ngữ lục là một thể loại khá đặc biệt trong văn học Phật giáo Lý - Trần, đáng tiếc hiện chỉ còn một số tác phẩm được bảo lưu so với thư tịch cổ cho biết. Về văn học Phật giáo đời Lý hiện còn Tham đồ hiển quyết của Viên Chiếu, nhưng chỉ vài đoạn; Nhất nhật hội chúng của Tịnh Không; Đáp đệ tử diệu đạo chi vấn của Chân Không. Đời Trần có Ngữ lục vấn đáp môn hạ của Trần Thái Tông, nay còn một phần ở trong Khoá hư lục; Tuệ Trung Thượng sĩ ngữ lục của Trần Tung do Pháp Loa ghi lại; Đoạn sách lục của Pháp Loa chỉ còn vài đoạn; Thánh đăng ngữ lục chưa rõ tác giả; Thiền uyển tập anh ngữ lục gồm nhiều tác giả. Một số tác phẩm thuộc loại ngữ lục khác chỉ còn tên sách như Thiền lâm thiết chuỷ ngữ lục, Thạch thất mỵ ngữ của Trần Nhân Tông; Phổ Tuệ ngữ lục của Huyền Quang…, chứ nội dung văn bản thì thất truyền. Ở đây, chúng tôi chỉ khảo sát các Ngữ lục của Thiền phái Trúc Lâm.

Ngữ lục vấn đáp môn hạ của Trần Thái Tông là tác phẩm được viết theo thể loại ngữ lục. Về mặt hình thức, ngữ lục là lời hỏi và đáp qua cuộc đối thoại giữa hai người, thông thường là giữa thầy và trò, giữa thiền sư này và thiền sư khác… như một cuộc hội ngộ đàm đạo. Ở thể loại này, các lời đối thoại có khi được diễn đạt bằng khẩu ngữ, hoặc được ghi


lại dưới dạng văn xuôi, có lúc được phô diễn bằng những lời thơ giàu hình ảnh thi ca, sống động, với lối ẩn dụ kín đáo nhằm gợi mở hoặc được diễn đạt bằng một thứ ngôn ngữ phi thực, siêu nghiệm. Sử dụng thủ pháp nghệ thuật này là hướng tư duy của người học trở về thực tại “đang là”ứ.

Đề tài để đối thoại thường xoay quanh lĩnh vực Thiền học, Phật học: Chân như, Phật tính, Sắc không… Theo văn bản này ghi lại thì đây là cuộc đối thoại giữa thiền sư Trung Hoa, hiệu Đức Thành và Trần Thái Tông. Nội dung văn bản đã được chúng tôi giải thích ở chương hai. Chỉ cần đọc hai câu hỏi và lời đáp đầu tiên, ta thấy vấn đề Thiền được đặt ra và giải đáp như thế nào.

- Tống Đức Thành tiến vân: “Thế Tôn vị ly Đâu Suất dĩ giáng vương cung; vị xuất mẫu thai, độ nhân dĩ tất thời như hà?”

- Đế vân: “Thiên giang hữu thuỷ thiên giang nguyệt, Vạn lý vô vân vạn lý thiên.”

- Tăng vân: “Vị ly vị xuất mông khai thị. Dĩ ly dĩ xuất sự nhược hà?” - Đế vân: “Vân sinh nhạc đính đô lư bạch, Thuỷ đáo Tiêu Tương nhất dạng thanh.” [333, 104] (H 193).

(- Thiền sư Đức Thành, nước Tống tiến lên hỏi: Thế Tôn chưa rời Đâu Suất đã giáng xuống Vương cung, chưa lọt lòng mẹ đã độ hết chúng sanh là thế nào?

- Vua đáp: Muôn sông có nước trăng muôn sông, Vạn dặm không mây, trời vạn dặm.

- Tăng nói: Chưa rời Đâu Suất lọt bào thai, Chỉ rõ phân minh đã rõ rồi. Đâu Suất, bào thai nay đã tách, Dám mong phân giải một đôi lời ?

- Vua đáp: Mây sinh đỉnh núi bềnh bồng trắng, Nước đến Tiêu Tương một sắc trong.)

[333, 106].

Sau này, vấn đề trên đã được thiền sư Chân Nguyên lý giải: “Mây lên núi bạc bằng

lau, Nước xuống nguồn Tào vặc vặc sáng thanh. Pháp thân trạm tịch vienâ minh, Tự tại tung

hoành phố mãn thái hư. Tuỳ hình ứng vật tự như, Hoá thiên bách ức độ chư mọi loài. Ứng hiện dưới đất trên trời, Khắp hoà thế giới mọi nơi trong ngoài. Đã đặt hiệu là Như Lai, Sao còn hỏi xuất mẫu thai làm gì? Nguyệt luân biến hoá quang huy, Thiên giang hữu thuỷ cùng thì bóng in.” [297, 297].

Hay lời vấn đáp của thầy trò Tuệ Trung trong Tuệ Trung Thượng sĩ ngữ lục của Trần Tung:

Xem tất cả 399 trang.

Ngày đăng: 02/02/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí