Giá trị văn học trong tác phẩm của Thiền phái Trúc Lâm - 16


Vì thế, thân phận con người cần phải tiếp tục chuyển hoá. Nó có nhu cầu hướng đến cái vô hạn để giải phóng cho chính mình như là một sự tất yếu. Con người có thể vượt qua không gian, thời gian và xoá đi những hàng rào biên giới các ảo tưởng về sự an bài của đấng siêu hình để chuyển hoá thân phận bằng cả tấm lòng vượt thoát các hệ luỵ khổ đau. Trong chiều hướng đó, con người đã thẳng thắn nhìn nhận về thân phận hữu hạn thật đáng thương, nhiều khiếm khuyết. Mỗi cá thể đều phải vượt qua các tướng trạng khổ đau của sinh già bệnh chết như vượt qua bốn ngọn núi cheo leo, tường vách dựng đứng như trong bài Phổ thuyết Tứ sơn mà Trần Thái Tông lý giải. [333, 42 - 44].

Cuộc hành trình này, tự thân ai cũng phải đi qua và đi như thế nào tùy theo nghiệp nhân, nghiệp quả của mỗi người. Sự thật, hình ảnh bốn núi này được đức Phật đề cập trong kinh Đại bát Niết bàn 29, ÑTK 374.12.536c9-13, trong Hán tạng, Tạp A Hàm kinh bài 1147, trong Pàli tạng, kinh Tương Ưng bộ bài 136. Đó là lời đức Phật chỉ dạy cho vua Ba Tư Nặc “Này Đại vương, có người thân tín từ bốn phương, ai cũng nói lời này: “Đại vương có bốn ngọn núi lớn từ bốn phương đang lăn về, tàn sát cây cỏ, vật, người, nhân dân? Vương nghe vậy thì nên đưa đội quân nào đi chinh phục? Vua nói: “Bạch Thế Tôn, nếu có điều đó tới thì không có đội quân nào chinh phục được bốn núi đó, chỉ nên chuyên tâm trì giới, bố thí”. Phật bảo: “Lành thay Đại vương, ta nói bốn núi đó là sinh, già, bệnh, chết của chúng sinh. Sinh già bệnh chết đều gắn bó với đời sống con người.”.

Suy nghĩ về pháp thoại giữa đức Phật và vua Ba Tư Nặc, ta thấy thân phận con người bị sinh, lão, bệnh, tử nghiền nát. Cho nên, Trần Thái Tông đã chỉ rõ tận cùng của cái “Bi” của thân phận kiếp người là để làm hoá hiện cái “Đẹp” qua hình ảnh bốn núi mà đức Phật đã giảng. Có thể nói, chưa có tác phẩm nào miêu tả tính chất bi hùng và thống thiết về thân phận con người mang tính kinh điển văn học như những gì Trần Thái Tông đã viết trong Khoá hư lục. Nhờ vậy, con người mới khát vọng thực thi một đời sống an lạc. Nếu mỗi người bị chi phối, tác động, hệ luỵ bởi nhiều môi trường hoàn cảnh khác nhau thì họ cũng có khả năng vượt thoát từ sự tịnh hoá của tâm hồn. Trần Nhân Tông khẳng định chân lý này trong Tảo mai I “Cam lộ lưu phương si điệp tỉnh, Dạ quang như thủy khát cầm sầu. Hằng Nga nhược thức hoa giai xứ. Quế lãnh thiềm hàn chỉ má hưu.” [333, 470] (H


129) (Đêm ngỡ nước trong, chim cháy cổ, Sương lừng hương ngát, bướm tan mơ. Hằng Nga như biết đây hoa đẹp, Quế lạnh cung Thiềm, há mến ưa?) [333, 471].

Đây là điều mà ông nghiệm ra trong những ngày ở Yên Tử dốc lòng tu đạo. Với một tâm hồn bén nhạy, ông có những rung cảm vừa thâm trầm tinh tế, vừa sắc sảo nồng nàn. Vẫn là bài thơ vịnh về cây mai, nhưng cây mai của ông khác hẳn với cây mai cây mai của Tề Kỷ đời Đường, có hoa nở sớm trong đám tuyết dày cuối đông: “Tiền thôn thâm tuyết lý. Tạc dạ nhất chi mai” (H 130) (Thôn trên dày tuyết phủ. Đêm trước một cành mai). Còn cây mai của ông được nhìn nhận như thân phận con người chuyển hóa. Đó là những cánh hoa mai mỏng manh, tinh khiết, nhưng lung linh hấp dẫn. Khi đông đến hoa nở trắng xóa cả vườn, hương thơm ngát lòng. Khi hết mùa chỉ còn lại vài hoa e ấp đầu cành, khiến bướm si mê phải giật mình, chị Hằng Nga luyến tiếc cung Thiềm… Thân phận con người là thế, khi nhận chân được bản chất của cuộc đời là gì thì sự ham muốn mất đi, chỉ còn lại tấm lòng trinh nguyên của sắc thân hiện hữu.

Giá trị thân phận con người là sự chuyển hóa bằng một tình thương vô hạn. Có lẽ Huyền Quang là một nhà thơ của Thiền phái có nhiều nỗi lòng khi suy gẫm về thân phận với những trăn trở, tâm sự rất sâu kín khi ông quyết định rút lui về núi rừng. Trong vai trò lãnh đạo Giáo hội, ông vẫn quyết định sống một cuộc đời hướng nội, thoát ly sự lợi dưỡng của trần thế nhiễu loạn. Tự mình bày tỏ chính kiến của mình, Huyền Quang mở lối đi về để tìm lại non nước xa xôi mà chính ông từng đánh mất giữa cuộc đời này: “Đức bạc

thường tàm kế Tổ đăng, Không giao Hàn, Thập khởi oan tanê g. Tranh như trục bạn qui sơn

khứ, Điệp chướng trùng loan vạn vạn tằng.” [333, 688] (H 131) (Đức mỏng, thẹn thùng đèn Tổ nối, Luống cho Hàn, Thập nổi hờn căm. Chi bằng theo bạn về non quách, Núi đứng non che vạn vạn tầng.) [333, 689].

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 399 trang tài liệu này.

Cái khiếm khuyết đó chính là con người không bao giờ biết dừng lại trong cuộc truy tìm quyền lực, danh vọng, tiền tài mà thực ra họ chỉ là chúng sinh nhỏ bé đang băng hoại trước cơn lốc vô thường. Vì thế, ông tri nghiệm về một đời sống bình an nội tại như ông từng hướng đến mà bài Trú miên mô tả “Tổ phụ điền viên nhậm tự sừ, Thiên thanh bàn khuất nhiễu ngô lư.” [333, 691] (H 132) (Vườn tược cha ông mặc sức cày, Quanh nhà xanh nượp mấy hàng cây.) [333, 691]. Từ đó, con người biết lắng nghe chia sẻ những nỗi đau ly


Giá trị văn học trong tác phẩm của Thiền phái Trúc Lâm - 16

biệt có lúc phải gánh chịu: “Kỷ gia sầu đối kim tiêu nguyệt, Lưỡng xứ mang nhiên nhất chủng tâm.” [333, 692] (H 133) (Đêm nay mấy kẻ sầu trăng nhỉ? Xa cách, nhưng lòng chỉ một thôi.) [333, 693].

Tuệ Trung khuyến cáo con người ra khỏi bụi trần, buông xả các dục, mỗi lần gột rửa là mỗi lần nghỉ ngơi “Nhất hồi đẩu tẩu nhất hồi hưu.” (Xuất trần) [333, 235] (H 134). Ông ca ngợi cảnh sống vui thú giang hồ, hòa nhập thiên nhiên với con thuyền lênh đênh trên sông dài, lắng nghe tiếng chim nhạn hát, gió thu thổi khắp muôn phương mà lòng tự tại theo triết lý nhà Phật, thanh nhàn theo đạo Lão Trang: “Nhất thanh hà xứ tân lai nhạn, Trắc giác thu phong biến thập châu.” (Giang hồ tự thích) [333, 244] (H 135). Trong sự thể nhập đó, Thượng sĩ đã thấu hiểu nỗi lòng của Thánh Tông suốt đời hướng đến sự chuyển hóa thân tâm để trí tuệ bừng sáng đạo lý Thiền, ông không chỉ biết chiêm nghiệm núi non trập trùng mà còn chia sẻ lắng nghe tiếng vượn trầm “Nhân gian chỉ kiến thiên sơn tú, Thùy thính viên đề thâm xứ thâm.” (Tụng Thánh Tông đạo học) [333, 254] (H 136). Không riêng gì Tuệ Trung, Trần Thánh Tông mà Trần Nhân Tông cũng đôi lần bộc bạch: “Thị phi niệm trục triêu hoa lạc, Danh lợi tâm tùy dạ vũ hàn.” [333, 469] (H 137) (Phải trái rụng theo hoa buổi sớm, Lợi danh lạnh với trận mưa đêm.) (Sơn phòng mạn hứng) [333, 469]; “Thê lương hành sắc thiêm cung mộng, Liêu loạn nhàn sầu đáo tửu môi.” [333, 476] (H 138) (Quạnh quẽ dặm xa mơ điện cũ, Vấn vương sầu lắng thấm ly nồng.) (Tây Chinh đạo trung) [333, 476] …

Xa hơn, Huyền Quang thì quá nhạy cảm với con người và thiên nhiên cảnh vật xung quanh bằng một tình yêu vô bờ bến. Thơ ông luôn bộc lộ những xao động trăn trở, giằng xé, mâu thuẫn nội tại, uẩn khúc ngay trong cõi lòng. Sự xao động của nỗi niềm cá nhân thầm kín có khi nó phá vỡ sự tĩnh lặng của hư không bằng những gam màu, âm thanh, đường nét của thế giới thực tại đang diễn bày. Giữa không gian biển trời mênh mông, con thuyền cứ thế lướt sóng đưa người qua bến mê. Trong cái tỉnh của hư không, tiếng sáo làng chài bỗng cất lên như khúc nhạc lòng như phá vỡ bình lặng sương đêm bao phủ, ánh trăng rọi chiếu những cành hoa lau đằng xa khiến người ta có cảm xúc dâng trào giữa thực và hư, giữa đạo và đời, giữa hữu và vô mà bài Phiếm chu khắc hoạ [333, 694].


Hay hình ảnh cánh chim hải âu bay lượn giữa không trung mịt mù sóng nước, trong khi tâm trạng nhà thơ vẫn phiêu du trên con thuyền cô độc đi tới sự tạân cùng của bến giác, gợi cho ta nhiều cảm xúc thi vị của bài thơ Chu trung mà Huyền Quang đã thi hứng. Trong cái thế giới mênh mang của trời đất, bao giờ vẫn có thực thể hiện hữu. Đó là con thuyền lướt qua biển khơi, là cánh chim hải âu hóa hiện giữa không trung, tất cả như biểu tượng trong cõi mênh mông đó, vẫn có bến bờ nguồn sống: “Vị mang tứ cố vãn triều sinh, Giang thủy liên thiên nhất âu bạch” [333, 684] (H 139) (Bốn bề trông quạnh ngọn triều lên, Nước biếc liền trời âu trắng xóa.) (Chu trung) [333, 685]. Nó chẳng khác gì hình ảnh

Trần Nhân Tông khacé họa trong bài Lạng Châu vãn cảnh [333, 468]. Đây chính là suối

nguồn để ông tạo ra những tứ thơ, ý thơ bộc lộ những nỗi lòng qua những cảm xúc, suy tư sâu lắng, nhưng cũng không kém phần xao động, xót xa, thương cảm trần thế.

Huyền Quang từng ý thức cuộc đời thật bụi bặm, mở mắt mà choáng váng (Phản quan trần thế giới, Khai nhãn túy mang mang.) (Ngọ thụy) [333, 682] (H 140); để rồi ông làm bạn núi rừng, vui thú chim muông “Trúc Lâm đa túc điểu, Quá bán bạn nhân tăng.” (Yên Tử sơn am cư) [333, 683] (H 141). Ngay cả khi lòng thật yên tĩnh, chỉ một tiếng dế kêu trong đêm khuya thanh vắng cũng khiến cho ông chạnh lòng trắc ẩn, băn khoăn tự hỏi “Cùng thanh tức tức vị thùy đa.” (Tiếng dế vì ai rầu rĩ mãi.) (Sơn vũ) [333, 692] (H

142) và tự dằn dỗi “Vong thân, chí thế dĩ đô vong.” (Cúc hoa) [333, 700] ( H 143) (Quên mình, quên đời, quên hết cả.) [333, 701] …

Từ cái nhìn triết lý nhân sinh Phật giáo, được khơi nguồn bằng cảm hứng nhân văn, các tác phẩm Thiền phái Trúc Lâm không chỉ cất liên tiếng nói yêu thương con người vạn vật mà còn lý giải mối quan hệ hài hoà giữa con người với con người, con người với cộng đồng xã hội, con người với thiên nhiên – vũ trụ. Sự tương thân, tương ái giữa con người với nhau; sự tương dữ, tương ái với thiên nhiên – vũ trụ mà thơ văn Thiền phái đã đi vào tâm thức người đọc như là một đạo lý để sống và an nhiên tự tại với đời.

Thứ đến là cảm hứng thế sự, nhìn từ góc độ bản chất thì thời kỳ văn học nào cũng định hình và phát triển trong một dòng chảy của bối cảnh lịch sử – xã hội cụ thể, được thể hiện rõ ở cảm hứng thế sự. Nhưng nó không đơn thuần phản ánh các sự kiện, nhân vật, đời sống xã hội đang diễn tiến mà còn bày tỏ cảm xúc chủ quan, sự nhìn nhận của con người


về hiện thực lịch sử đó. Điều này cắt nghĩa cho chúng ta tại sao văn học đời Trần mang dấu ấn cảm quan Phật giáo cùng với hiện thực lịch sử. Nó cũng lý giải và minh định cho bộ phận văn học Phật giáo đời Trần nói riêng, cụ thể là Thiền phái Trúc Lâm có nội dung chuyển tải về truyền thống yêu nước và nhân văn của dân tộc ta với sự xuất hiện nguồn cảm hứng thế sự đậm chất trữ tình nhân bản.

Trong một bối cảnh lịch sử cả dân tộc buổi đầu xác lập nền độc lập tự chủ của đất nước Đại Việt, thơ văn đời Lý đã phản ánh trung thực diện mạo tính chất văn học gắn liền lịch sử. Với sự tham gia của các thiền sư và quần chúng Phật tử, dân tộc ta đã làm nên kỳ tích lần thứ hai đánh quân xâm lược nhà Tống vào năm 1077. Hầu hết những bài văn, bài thơ các thiền sư sáng tác mang nội dung cảm quan Thiền học, diễn đạt thế giới chứng ngộ. Số còn lại là một số bài văn, bài thơ phản ánh sự quan tâm về vận mệnh quốc gia, xã tắc trước sự xâm lược, hay ca ngợi những công đức lớn lao đối với các thiền sư, công thần đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.

Sư Vạn Hạnh là người từng khuyên Lý Công Uẩn lên ngôi để khai sáng ra triều đại nhà Lý phát triển rực rỡ suốt 215 năm (1010-1225): “Tông chủ vạn dân, xả Thân vệ, kỳ thùy đương chi?” (Khuyến Lý Công uẩn) [332, 216] (H 144) (Người đứng đầu muôn dân chẳng phải Thân vệ thì còn ai đương nỗi nữa.) [332, 216]. Là người suốt đời hướng nghĩ đại cuộc, cũng như tính đến việc dời đô để “tính kế lâu dài cho đời sau” (Thiên đô chiếu) [332, 229], ông đã được vua Lý Nhân Tông làm thơ truy tán ca ngợi là bậc “Trụ tích trấn vương kỳ” [332, 433] (H 145). Bài Đại Việt quốc đương gia đệ tứ đế Sùng Thiện Diên Linh tháp bi thì tán dương Lý Nhân Tông trong việc giữ nước, dựng nước hợp với lòng dân là hợp với đạo Phật, với giọng văn trầm hùng, kiêu hãnh lòng tự hào dân tộc “Thượng phương thùy củng; hạ chính bật lân… Kiềm lê hy hợp; triệu thứ thanh di” [332, 398] (H

146) (Trên vừa trị yên trong nước, dưới đương giúp đỡ lân bang… Nhân dân hòa hợp; trăm họ yên vui.” [332, 405].

Đến đời Trần, với kỳ tích ba lần chiến thắng quân Nguyên cùng với mô hình các vị vua rút lui về làm Thái Thượng hoàng, làm thiền gia, thiền sư thì cảm hứng thế sự đậm chất nhân văn trữ tình phát triển về lượng - chất được thể hiện rõ trong thơ văn Thiền phái Trúc Lâm. Theo các nhà nghiên cứu thì con người trong văn học Phật giáo Lý - Trần là


con người bản lĩnh, vô ngôn, vô uý, vô tạp, vô nhiễm, vô niệm, luôn tự chủ, tự do, phá chấp, trí tuệ siêu việt và đầy đủ sức mạnh. Con người ấy có thể hoà nhập vũ trụ, mang kích cỡ lớn. Đó cũng là con người biết kết hợp đạo và đời, nhập thế tích cực để hành đạo. Ngoài ra, Trần Đình Sử còn phát biểu “Con người trong văn học cổ điển ưu thế thuộc về tấm lòng, con người của chí khí. Việc tỏ lòng, tỏ chí khí là nét đặc trưng của họ.” [229, 26]. Con người trong văn thơ Thiền phái không chỉ mang đặc trưng chung nhất nói trên mà còn có sự biến chuyển nội tâm, giãi bày tâm sự, nỗi lòng chính mình trước thời cuộc, với con người thật sâu lắng hay trầm bỗng.

Cắt nghĩa cho sự vận động biến chuyển những trạng thái tâm hồn của con người qua thơ văn Thiền phái với một cảm hứng thế sự đậm đặc chất trữ tình nhân văn này là do triều Trần có cả quá trình hưng thịnh khá tiêu biểu trong lịch sử các triều đại phong kiến Việt Nam. Đội ngũ sáng tác không đơn thuần là mẫu người sống thuần túy trong chùa mà những vị vua về sau trở thành thiền gia, thiền sư lãnh đạo Đất nước và Giáo hội rất trải nghiệm cuộc sống ở hoàng triều, và mang trọng trách lớn với quốc gia xã tắc và đạo pháp. Đọc Khóa hư lục của Trần Thái Tông mới thấu hiểu tấm lòng nhân ái, vị tha, độ lượng với những biến chuyển của hoàn cảnh, con người cụ thể kể từ khi chấp nhận lời khuyên của Quốc sư Viên Chứng từ bỏ việc lên núi Yên Tử làm Phật, trở về kinh đô lãnh đạo đất nước được ghi trong bài tựa Thiền tông chỉ nam. Khi đất nước thanh bình thì nhà vua lo “làm cán cân cho hậu thế, làm khuôn phép cho tương lai”, lúc có chiến tranh thì làm tướng đi đánh giặc “xông vào mũi tên làn đạn”, khi nhàn rỗi thì hội kiến “các bậc kỳ đức để tham thiền học đạo và nghiên cứu các kinh điển đại giáo”, làm vua nhưng “xem thường vinh hoa phú quý, có thể từ bỏ ngai vàng không chút luyến tiếc” như Việt sử tiêu án từng ghi. Có thể nói, những người lãnh đạo quốc gia vào thời Trần luôn đem hết tâm trí lực để huy động sức mạnh toàn dân, đoàn kết nội bộ hoàng tộc để xây dựng và bảo vệ đất nước phát triển vững bền. Trần Thánh Tông là mẫu người như thế, ông là người đứng ra triệu tập hội nghị Diên Hồng, phát động tinh thần sát thát của toàn dân, hai lần trực tiếp tham gia lãnh đạo cuộc kháng chiến chống quân Nguyên làm nên kỳ tích. Thơ văn của ông là tiếng nói chân tình giải bày nỗi niềm tâm sự trước vận mệnh dân tộc lúc nguy nan và tự

hào yêu đời khi đất nước thanh bình.


Đọc bài Tông thân chi nghĩa luận mới thấy ông là người bộc bạch thấu tình đạt lý khi ông xác định quyền lợi của cá nhân chính là quyền lợi hoàng tộc, của dân tộc “… Tuy ngoại dĩ thiên hạ phụng nhất nhân chi tôn, nhi nội tắc dữ khanh đẳng cốt nhục đồng bào, ưu tắc cộng ưu, lạc tắc cộng lạc. Khanh đẳng đương dĩ thử ngữ truyền chi tử tôn, sử cửu vật vong, tắc tông xã vạn niên chi phúc dã.” [333, 418] (H 147) (… Tuy bề ngoài là cả thiên hạ phụng sự một người tôn quý, nhưng bên trong thì ta cùng các khanh là đồng bào ruột thịt, lo thì cùng lo, vui thì cùng vui. Các khanh nên đem mấy lời này mà truyền cho con cháu, để nhớ mãi đừng quên. Ấy là phúc muôn đời của tông miếu xã tắc vậy.” [333, 418 - 419].

Tâm trạng hào hứng, phấn khởi của các nhà thơ Thiền phái còn được thể hiện qua nhiều bài thơ ngợi ca hào khí dân tộc, sức mạnh và tinh thần quân dân Đại Việt trong những chiến công hào hùng làm nên lịch sử. Nếu Phạm Ngũ Lão trong bài Thuật hoài với cảm xúc mãnh liệt tạo ra hình ảnh người chiến sĩ hiên ngang “Hoành sóc giang sơn cáp kỷ thu” (333, 562) (H 148) (Múa giáo non sông trải mấy thâu” thì Trần Nhân đã hứng khởi về khí hào hùng của quân dân “Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã, Sơn hà thiên cổ điện kim âu.” [333, 483] (H 149) (Xã tắc hai phen chồn ngựa đá, Non sông nghìn thuở vững âu vàng.” [333, 483] trong bài Tức sự. Đó chính là nguồn cảm hứng dâng trào được thể hiện qua những vầng thơ xúc cảm về chiến thắng vinh quang của dân tộc ngày xưa vẫn còn đó “Bạch đầu quân sĩ tại, Vãng vãng thuyết Nguyên Phong.” [333, 452] (H 150) (Người lính già đầu bạc còn đến ngày nay, Thường kể lại chuyện đời Nguyên Phong.) (Xuân nhật yết Chiêu Lăng) [333, 453].

Rõ ràng, nhà thơ hòa nhập cái tâm hồn của mình vào trong tâm thức thời đại đang vươn tới. Tâm điểm chính vẫn là hình ảnh đất nước, dân tộc, thời đại được thi hứng qua những xúc cảm nhân văn trữ tình, sâu lắng, ngời khí hùng ca. Nếu có đề cập một người thì người đó cũng là mẫu người khác thường, có thể đại diện cho tinh thần dân tộc. Bài Tán Tuệ Trung Thượng sĩ của Trần Nhân Tông là một thí dụ điển hình “Vọng chi di cao, Toàn chi di kiên. Hốt nhiên tại hậu, Chiêm chi tại tiền. Phu thị chi vị, Thượng sĩ chi Thiền.” [333, 485] (H 151) (Càng nhìn càng cao, Càng khoan càng bền. Chợt phía sau đó, Ngắm, phía trước liền. Cái này tên gọi, Là Thượng sĩ Thiền.) [333, 485]. Ngay cả khi Tuệ Trung tán thán đạo phong của Thánh Tông trong bài Tụng Thánh Tông đạo học [333, 254], Pháp


Loa ở bài Tán Tuệ Trung Thượng sĩ [333, 649] ca ngợi Thượng sĩ là bậc biểu tượng của một nhân cách lớn, được tôi luyện trong ý chí và sức mạnh, phong thái con người Đại Việt cũng không ngoài cảm thức, hứng khởi của thời đại Lý – Trần.

Sống trong thế giới thanh bình của một đất nước độc lập, Huyền Quang cũng thường bộc lộ những cảm xúc của mình trước cảnh vật, không gian bao la, tâm thế của con người trải nghiệm, nhưng sâu lắng hơn trước biến chuyển của thời thế. Hoàn cảnh lịch sử, xã hội, thời đại trở thành nhân tố chi phối cảm hứng của nhà thơ. Cảnh mà Huyền Quang thường là cảnh chùa và am trên cao, hay là cảnh chiếc thuyền con lênh đênh trên sông rộng, đúng như lời nhận xét của Lê Quý Đôn khen ông là “ý tinh tế cao siêu”, còn Phan Huy Chú thì ca ngợi “lời bay bướm, phóng khoáng.”. Sự vui vẻ với tâm hồn giản dị của mình mà sư cho là vụng dại không mưu chước, dùng cái gậy khẳng khiu đỡ lấy thân già, cùng làm bạn chim muông ở rừng trúc “Bão chuyết vô dư sách, Phù suy hữu sấu đằng. Trúc Lâm đa túc điểu, Quá bán bạn nhìn tăng.”(Yên Tử am sơn tăng) [333, 683] (H 152). Và lòng sư biết rõ: “Lòng Thiền vằng vặc trăng soi rọi, Thế sự hiu hiu gió thổi qua.” (Vịnh Vân Yên Tử phú) [333, 712] (N 153).

Bên cạnh những cảm xúc hướng đến cái chung của dân tộc, thời đại, con người trước vận hội mới của đất nước của các nhà thơ - văn Thiền phái, vẫn có những bài văn, bài thơ bộc lộ những tâm trạng, nỗi lòng lo lắng của cá nhân trước thời cuộc, trước những con người đang sống trong sự ham muốn cá nhân chi phối. Là một ông vua sống trong hoàng triều, Trần Thái Tông hiểu rất rõ con người dễ dàng bị cám dỗ bởi danh vọng, tiền bạc, sắc đẹp làm tha hóa nhân cách. Mỗi cá nhân sai phạm ít nhiều tác động đến tự thân và mọi người xung quanh, huống chi cá nhân đó lãnh đạo cả tập thể, một cộng động đồng thì sức ảnh hưởng càng lớn, có khi dẫn đến mất nước nhà tan. Ông viết ra Lục thời sám hối khoa nghi để thẳng thắn nhìn nhận sự thật các vấn đề ham muốn cá nhân, dẫn đến tham nhũng tài sản của cộng đồng hết sức nhạy cảm và tinh tế. Nó còn có ý nghĩa nữa là đề ra biện pháp sửa chữa sai lầm của từng cá nhân sai phạm, nhằm tác động đến các tầng lớp lãnh đạo và cả đại chúng nhân dân. Ông trở thành “nhà thơ sám hối” vì đã “sáng tạo ra loại hình thơ sám hối độc đáo trong thơ Thiền.” [104, 311] để cất lên tiếng nói sự thật của mỗi con người trước hiện thực xã hội.

Xem tất cả 399 trang.

Ngày đăng: 02/02/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí