hướng cục bộ, nếu không có giải pháp căn cơ dẫn đến những hệ lụy nguy hiểm mà sau này gọi là “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
2.3.3. Chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế
Bước sang thế kỷ XXI, Việt Nam tiến hành nhiều biện pháp đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại trên tất cả các mặt, các lĩnh vực: hợp tác song phương và đa phương; mở rộng quan hệ thương mại, thu hút vốn đầu tư, xuất khẩu lao động, tiếp nhận kiều hối và tăng cường nhiều hoạt động kinh tế đối ngoại khác.
Thực hiện đường lối đối ngoại “độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa”, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 178 quốc gia; quan hệ thương mại với 175 quốc gia và vùng lãnh thổ, ký hơn 60 hiệp định kinh tế và thương mại song phương và thiết lập quan hệ đầu tư với trên 84 quốc gia và vùng lãnh thổ. Nước ta đã tích cực triển khai các cam kết trong Hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam-Nhật Bản (EPA); xúc tiến đàm phán Hiệp định khung về đối tác và hợp tác toàn diện với EU (PCA); đàm phán Hiệp định đầu tư song phương với Hoa Kỳ (BIT) và Ca-na- đa; đàm phán Hiệp định tự do thương mại song phương (FTA) với Chi-lê…
Việt Nam cũng đã thực hiện đầy đủ các cam kết tự do hóa thương mại trong khuôn khổ khu vực thương mại tự do ASEAN (AFTA); tham gia tích cực trong Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á-Thái Bình Dương (APEC); duy trì tốt mối quan hệ thường xuyên và chặt chẽ với các tổ chức kinh tế, tài chính quốc tế như UNDP, UNFPA, FAO, …, đặc biệt là đã chủ động và tích cực đàm phán để sớm gia nhập tổ chức Thương mại quốc tế (WTO). Ngày 01-11-2007, Việt Nam đã trở thành thành viên thứ 150 của WTO. Việc chính thức gia nhập WTO nói riêng và những kết quả đạt được trong các hoạt động kinh tế đối ngoại những năm 2001- 2010 nói chung đã đưa nền kinh tế hội nhập ngày càng đầy đủ với nền kinh tế khu vực và thế giới, góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế; đồng thời tạo môi trường thuận lợi đẩy mạnh hợp tác kinh tế và thu hút các nguồn lực bên ngoài phát triển kinh tế-xã hội đất nước.
Trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, nhiều cam kết trong các hiệp định thương mại được thực hiện, tạo điều kiện cho kinh tế phát triển, xóa bỏ phân biệt đối xử giữa người tiêu dùng trong nước với ngoài nước về giá, phí dịch vụ, giảm dần những hạn chế về chuyển giao công nghệ, quản lý ngoại hối, sử dụng đất đai.
Một mặt, điều này làm giảm các rào cản về thương mại và đầu tư, đồng thời nó cũng góp phần làm gia tăng yếu tố thị trường của thể chế kinh tế Việt Nam.
Kết quả cụ thể của việc tăng cường hoạt động kinh tế đối ngoại trong những năm 2001-2010 được thể hiện trước hết ở hoạt động xuất nhập khẩu: Tổng mức lưu chuyển hàng hóa ngoại thương năm 2010 đạt gần 157 tỷ USD, gấp trên 5,2 lần năm 2000, trong đó xuất khẩu đạt 72,2 tỷ USD, gấp trên 5 lần; nhập khẩu 84,8 tỷ USD, gấp gần 5,4 lần, trong những năm 2001-2010, bình quân mỗi năm tổng mức lưu chuyển hàng hóa ngoại thương tăng 18%, trong đó xuất khẩu tăng 17,4%; nhập khẩu tăng 18,4% [138, tr.13]
Có thể bạn quan tâm!
- Phân Bổ Nguồn Lực Trong Nền Kinh Tế Thị Trường Định Hướng Xã Hội Chủ Nghĩa
- Chủ Động Và Tích Cực Hội Nhập Kinh Tế Quốc Tế
- Thúc Đẩy Phát Triển Các Yếu Tố Thị Trường, Các Loại Thị Trường, Các Chủ Thể Của Kinh Tế Thị Trường
- Các Nước Cơ Cấu Lại Nền Kinh Tế Giai Đoạn “Hậu Khủng Hoảng” Tài
- Tình Hình Xử Lý Di Tồn Kinh Tế Của Giai Đoạn Trước
- Tiếp Tục Đổi Mới, Cơ Cấu Lại Doanh Nghiệp Nhà Nước Để Thật Sự Cạnh Tranh Bình Đẳng Trong Nền Kinh Tế Thị Trường
Xem toàn bộ 184 trang tài liệu này.
Kết quả quan trọng khác trong hoạt động kinh tế đối ngoại là thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Tổng số vốn thực hiện mười năm 2001-2010 đạt gần 58,5 tỷ USD, gấp 3 lần, mười năm trước đó [138, tr.14]. Cộng đồng tài trợ quốc tế hoạt động thường xuyên tại nước ta đã lên tới 51 nhà tài trợ, bao gồm 28 nhà tài trợ song phương và 23 nhà tài trợ đa phương. Ngoài ra, Việt Nam còn nhận được vốn ODA từ 600 tổ chức phi chính phủ quốc tế. Tại mười Hội nghị thường niên Nhóm tư vấn các nhà tài trợ quốc tế từ năm 2001 đến năm 2010, cộng đồng các nhà tài trợ quốc tế đã cam kết dành cho Việt Nam trên 46,6 tỷ USD vốn ODA, đã ký kết được trên 35,5 tỷ USD và giải ngân được khoảng 23,0 tỷ USD [138; tr.15]. Cùng với việc tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài, nước ta đã đẩy mạnh hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Trong mười năm (2001-2010) đã đầu tư ở nước ngoài 533 dự án với tổng số vốn đăng ký trên 10,7 tỷ USD [138; tr.16]. Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của nước ta đã triển khai trong 15 ngành, trong đó, một số ngành có nhiều dự án và số vốn đăng ký cao là: Nông, lâm nghiệp; khai thác mỏ; công nghiệp chế biến; sản xuất và phân phối điện nước; kinh doanh tài sản; dịch vụ tư vấn,…
Tuy nhiên, tính chủ động, tích cực trong hội nhập kinh tế quốc tế chưa cao, nhiều nguy cơ chưa được hóa giải. Việt Nam còn thiếu lộ trình thật chủ động trong hội nhập kinh tế quốc tế; chưa gắn kết chặt chẽ tiến trình hội nhập với việc hoàn thiện pháp luật, thể chế, chính sách và cải cách cơ cấu kinh tế; việc nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá, của DN và của nền kinh tế chưa theo kịp với yêu cầu của hội nhập. Môi trường đầu tư kém hấp dẫn so với một số nước xung quanh. Chưa thu hút được nhiều vốn đầu tư và công nghệ tiên tiến của các tập đoàn kinh tế lớn; chưa chủ động khai thác vốn đầu tư gián tiếp quốc tế.Việc giải ngân vốn ODA còn chậm.
Tính phụ thuộc vào một số thị trường, chưa đa dạng hóa thị trường, cản trở xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ. Độ mở kinh tế ngày càng cao nhưng hệ thống phòng vệ thương mại, ứng phó với thách thức của khủng hoảng, rủi ro từ bên ngoài vẫn chưa tương thích. Cân đối cán cân thương mại luôn trong tình trạng nhập siêu và ít có dấu hiệu cải thiện. Trong mười năm 2001-2010, tổng giá trị hàng hóa nhập siêu gần 81,7 tỷ USD, bằng 20,9% tổng kim ngạch hàng hóa xuất khẩu. Trị giá nhập siêu hàng hóa năm 2010 khoảng 12,4 tỷ USD, gấp trên 10,7 lần mức nhập siêu hàng hóa năm 2000. Tính ra, trong những năm 2001-2010, tốc độ tăng nhập siêu bình quân mỗi năm gần 26,8%.
2.3.4. Đổi mới từng bước quản lý nhà nước phù hợp với cơ chế thị trường
Vai trò định hướng phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước ngày càng được đề cao và thực hiện nghiêm túc bên cạnh việc thu hẹp chỉ tiêu pháp lệnh. Công cụ của việc định hướng phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước bao gồm:chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách, công cụ quản lý vĩ mô như tài khóa (thuế, phí, lệ phí, đầu tư công) và tài chính – tiền tệ (tỷ giá, tín dụng...), . Các công cụ này có quan hệ mật thiết với nhau, bổ sung cho nhau. Nhà nước chuyển sang quản lý nền kinh tế bằng các hệ thống pháp luật và công cụ kinh tế, hạn chế mức thấp can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế bằng các quyết định mang tính hành chính. Việc kiểm soát độc quyền của Nhà nước đối với các mặt hàng mang tính độc quyền tốt hơn. Năm 2001, Hiến pháp 1992 được bổ sung đã khẳng định Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền KTTT định hướng XHCN, các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế, cùng phát triển lâu dài, hợp tác bình đẳng, mở rộng hoạt động kinh tế đối ngoại. Nhìn chung, hệ thống pháp luật trong nước từng bước có sự điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung theo hướng khẳng định vững chắc quyền tự do kinh doanh của công dân, phát triển kinh tế nhiều thành phần, xóa bỏ cơ chế tập trung, bao cấp, xóa bỏ độc quyền ngoại thương của Nhà nước, khai thác có hiệu quả mọi nguồn lực trong xã hội. Luật phá sản (2004), Luật Doanh nghiệp (2005), Luật Đầu tư (2005),…đã khẳng định tinh thần bình đẳng giữa các thành phần kinh tế trong nước, tạo mội trường thuận lợi cho hoạt động sản xuất, kinh doanh, đồng thời cũng thể hiện sự không phân biệt giữa đầu tư trong và ngoài nước.
Để triển khai nhiệm vụ xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội cho nền kinh tế, Nhà nước đã tăng cường nguồn vốn ngân sách và tín dụng nhà nước vào giao thông, thủy lợi, điện nước, đô thị,…mà giảm dần đầu tư vốn vào sản xuất, kinh doanh. Nhà nước đã bước đầu xây dựng được một số cơ chế để tổ chức thực hiện nguyên tắc gắn tăng trưởng kinh tế với đảm bảo tiến bộ và công bằng xã hội. Trong phân phối sản phẩm hướng đến việc đảm bảo các nguyên tắc của KTTT, đồng thời khắc phụ được những hạn chế ngoại ứng tiêu cực do thị trường gây ra.
Các đổi mới đó vẫn chưa đảm bảo chuyển đổi nhà nước phù hợp với nền kinh tế thị trường. Năng lực dự báo, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước trên lĩnh vực kinh tế còn yếu. Vốn đầu tư của khu vực nhà nước chiếm tỷ trọng cao nhưng bố trí dàn trải, đầu tư không đồng bộ, nhiều công trình đầu tư kéo dài; một số công trình hoàn thành đưa vào sử dụng không phù hợp nên không phát huy được hiệu quả. Tình hình trên đã làm cho hiệu quả đầu tư của khu vực Nhà nước nói riêng và của toàn bộ nền kinh tế nói chung có xu hướng giảm dần. Hệ thống pháp luật kinh tế thiếu toàn diện, đồng bộ, chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý nhà nước bằng pháp luật. Nhiều quy định trong các luật còn chồng chéo, gây nhiều khó khăn trong vận hành nền KTTT định hướng XHCN. Tư duy về sở hữu, đặc biệt là sở hữu và phân phối trong DNNN chưa được xác định và xử lý rõ ràng, điều đó gây nên những thất thoát tài sản Nhà nước trong quá trình cổ phần hóa DNNN. Phân phối nguồn lực quốc gia chưa được đổi mới mạnh mẽ, thậm chí còn tái sinh tư tưởng bao cấp ở nơi này hay nơi khác, hìn thức này hay hình thức khác. Các nguồn lực đầu vào cho sản xuất vẫn chưa thật sự phân bổ theo quy luật của thị trường, như đất đai, tín dụng, chính sách tỷ giá. Cách quản lý giá cả ở các lĩnh vực DNNN độc quyền còn lúng túng. Thể chế về giá, cạnh tranh và kiểm soát độc quyền chưa được hình thành đầy đủ. Hệ thống pháp luật vẫn chưa thể hình thành một môi trường cạnh tranh ở những lĩnh vực độc quyền.
2.3.5. Phát huy sức mạnh tổng hợp cả hệ thống chính trị và toàn xã hội
để thúc đẩy tiến bộ và công bằng xã hội
Công tác xóa đói giảm nghèo, có nhiều tiến bộ vượt bậc, đặc biệt trong 10 năm 1991 – 2000: “Tỷ lệ hộ nghèo cả nước trung bình mỗi năm giảm 2-3%, bình quân mỗi năm giảm được 400 hộ, đến năm 2010 tỷ lệ hộ nghèo giảm còn khoảng 10%” [14, tr.32]
Theo đánh giá của Liên hợp quốc, Việt Nam đã hoàn thành Mục tiêu Thiên niên kỷ xóa đói giảm nghèo đến năm 2015 trước 10 năm. Thu nhập và chất lượng cuộc sống của nhân dân được nâng lên. “Thu nhập thực tế của nhân dân năm 2010 so với năm 2000 đã tăng 3,5 lần” [14, tr.31]. “Chỉ số phát triển con người không ngừng tăng lên từ 0,683 năm 2000 lên 0,733 năm 2008” [14, tr.31] và 0,572 năm 2010 ( xếp hạng thứ 113/169)
Công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân đạt được nhiều kết quả quan trọng, tác động tích cực đến các chỉ số sức khỏe cộng đồng. Xu thế giảm sinh tiếp tục được duy trì và đạt được mức sinh thay thế. “Tốc độ tăng quy mô dân số giảm dần, đến năm 2010 quy mô dân số Việt Nam đạt khoảng 87 triệu người, với mức tăng vào khoảng 1,04 %” [14, tr.99]. “Năm 2010 số giường bệnh / 1 vạn dân đạt 27,5 giường; 100% số xã, phường có trạm y tế; 70% số xã có bác sĩ; trên 90% số trạm y tế có nữ hộ sinh hoặc y sĩ sản nhi; 85% thôn bản có nhân viên y tế. Số trạm y tế đạt chuẩn quốc gia năm 2010 đạt 80%” [14, tr.100].
Giải quyết việc làm đã có bước chuyển biến mạnh mẽ. Giai đoạn 2001-2010, các chính sách của Đảng đã giúp tạo được khoảng 10,7 triệu việc làm mới, trung bình hơn 1 triệu việc làm/ 1 năm [139, tr.100]. Tỷ lệ thất nghiệp của người lao động vào năm 2010 giảm xuống còn 4,29% [139, tr.125].
Phúc lợi xã hội và hệ thống an sinh xã hội được chú trọng và từng bước mở rộng. Tỷ trọng chi ngân sách nhà nước để thực hiện phúc lợi xã hội trong các lĩnh vực như giáo dục, y tế, lương hưu,..tăng lên nhanh chóng từ 24,6% năm 2000 lên 26,7% năm 2007. Hoạt động tham gia bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội ngày càng thu được hiệu quả cao. Đến hết năm 2010, số người tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc đạt 9,7 triệu người, bảo hiểm y tế là 52 triệu người, bảo hiểm thất nghiệp là 7,2 triệu người [167].
Đổi mới giáo dục đạt một số kết quả bước đầu. Hàng năm, Nhà nước dành khoảng trên 20% ngân sách cho hoạt động giáo dục, đào tạo; bên cạnh đó, giáo dục, đào tạo ở vùng sâu xa có nhiều bước tiến do Nhà nước đẩy mạnh huy động các nguồn lực xã hội hóa. Đến năm 2010, tất cả các tỉnh, thành phố đã đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở [37, tr.153]. Công bằng trong giáo dục được thực hiện tốt hơn. Chính sách hỗ trợ học sinh, sinh viên nghèo và diện chính sách được triển khai thực hiện rộng rãi, có tác động xã hội to lớn. “Năm 2000, chỉ có 90 nghìn sinh
viên được vay vốn tín dụng ưu đãi, năm 2009 là 1,3 triệu, trong đó 50% là sinh viên cao đẳng, đại học” [14, tr.41]. Công tác phát triển nhà ở được chú trọng. “Hàng năm tăng thêm khoảng 30 triệu m2 sàn, diện tích bình quân tăng từ 11m2 sàn/người năm 2000 lên 18,6 m2 sàn/ ngườinăm 2010” [14, tr.31].
Tuy nhiên, để bảo đảm giữ vững định hướng XHCN, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội vẫn còn nhiều khoảng cách, tác động mặt tiêu cực của cơ chế thị trường vẫn chưa được hóa giải. Đời sống một bộ phận dân cư còn khó khăn; nhiều nan giải xã hội bức xúc chậm được khắc phục. Tỷ lệ nghèo của nước ta đã giảm đáng kể nhưng vẫn còn tương đối cao. Năm 2010 tỷ lệ hộ nghèo (theo chuẩn nghèo mới) của một số vùng vẫn trên 20% (Vùng Trung du và miền núi phía Bắc còn 29,4%; Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung 20,4%; Tây Nguyên 22,2%). Giảm nghèo thiếu bền vững, nhiều chính sách an sinh xã hội và giảm nghèo chồng lấn nhau, và chồng chéo với các chính sách khác. Tỷ lệ tái nghèo cao. Chưa hình thành được một cơ chế đồng bộ về giảm nghèo đa chiều, đa mục tiêu. Chênh lệch giàu nghèo ngày càng tăng. Thu nhập của các tầng lớp dân cư đều tăng trong những năm vừa qua, nhưng thu nhập của một bộ phận dân cư tăng chậm, làm cho khoảng cách chênh lệch giàu nghèo tương đối cao và có xu hướng ngày càng bị đẩy ra xa hơn: Thu nhập của 20% dân số giàu nhất và 20% dân số nghèo nhất đã cách nhau 9,34 lần [141, tr.25].Chất lượng giáo dục và đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu phát triển, nhất là đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao vẫn còn hạn chế; chưa chuyển mạnh sang đào tạo theo nhu cầu của xã hội. Việc thực hiện xã hội hoá chưa được đẩy mạnh, chưa huy động được nhiều nguồn tài chính phi ngân sách để đầu tư cho phát triển giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ, văn hoá, giải quyết các vấn đề xã hội, môi trường. Tình trạng thiếu việc làm còn cao. Chính sách tiền lương, thu nhập còn thấp nên nhiều cán bộ, công chức, người lao động chưa tâm huyết với công việc. Chất lượng công tác bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ còn thấp, hệ thống y tế và chất lượng dịch vụ y tế còn nhiều bất cập
Tiểu kết chương 2
Giai đoạn lịch sử 2001 - 2010 bắt đầu định hình mô hình tổng quát của nền kinh tế Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên CNXH, chứa đựng cả nội dung “giải cấu trúc” những di tồn của cơ chế bao cấp còn ăn sâu trong kết cấu kinh tế và “tái cấu trúc” các quan hệ thị trường sơ khai đã hình thành trước đó. Mô hình này được định
hình, bổ sung và phát triển tiệm tiến qua Đại hội IX và Đại hội X của Đảng, được các Trung ương Đảng, Bộ Chính trị bổ sung, phát triển. Qua tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, nền KTTT định hướng XHCN - mô hình kinh tế tổng quát của Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên CNXH - đã được xác lập cả về mặt đường lối chung và đường lối cụ thể. Về mặt đường lối chung, nền KTTT định hướng XHCN là một bộ phận cấu thành mô hình CNXH và con đường lên CNXH ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên CNXH, có khả năng giải phóng sức sản xuất để tạo nền tảng cơ sở vật chất xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đem lại chất lượng cuộc sống ngày càng tốt hơn cho nhân dân. Về mặt đường lối cụ thể, mô hình kinh tế tổng thể được cấu thành bởi nhiều nội dung mà quan điểm, nhận thức của Đảng có nhiều điểm ngày càng sáng rõ hơn, như: phân bổ nguồn lực trong kinh tế thị trường, vận dụng các quy luật của kinh tế thị trường (giá trị, cung cầu, cạnh tranh), các yếu tố của thị trường và các thành phần kinh tế, vai trò, địa vị của các thành phần kinh tế trong nền kinh tế quốc dân, quan hệ giữa thị trường trong nước và với thị trường toàn cầu gắn với hội nhập kinh tế quốc tế, chức năng kinh tế của nhà nước, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Về mặt thực hiện đường lối, các quan điểm đổi mới đã từng bước được thể chế chế hóa thành luật pháp, chính sách để tạo “luật chơi” cho các chủ thể kinh tế thị trường, nhà nước đã cơ cấu lại chức năng kinh tế của mình, hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra mạnh mẽ, gắn với thường xuyên chăm lo thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, nhằm giữ vững định hướng XHCN. Các nội dung nêu trên bao hàm cả yêu cầu tôn trọng quy luật KTTT và giữ vững định hướng XHCN trong quá trình đổi mới, tạo chuyển biến to lớn của đất nước trong thập niên đầu của thế kỷ XXI. Tuy nhiên, do mới định hình mô hình kinh tế tổng quát, các bộ phận cấu thành của mô hình và quan hệ giữa chúng còn nhiều khiếm khuyết, hệ lụy của nó đã bộc lộ rõ trong thực tiễn vận hành nền kinh tế. Vì vậy, tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận để bổ sung, hoàn thiện đường lối phát triển nền KTTT định hướng XHCN tiếp tục được Đảng Cộng sản Việt Nam đặc biệt quan tâm trong các thời đoạn tiếp theo.
Chương 3
QUÁ TRÌNH BỔ SUNG, PHÁT TRIỂN ĐƯỜNG LỐI XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA THEO TIÊU CHUẨN HIỆN ĐẠI, HỘI NHẬP QUỐC TẾ (2011 – 2016)
3.1. BỐI CẢNH TÁC ĐỘNG ĐẾN VIỆC BỔ SUNG, PHÁT TRIỂN ĐƯỜNG LỐI XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA THEO CÁC TIÊU CHUẨN HIỆN ĐẠI, HỘI NHẬP QUỐC TẾ
3.1.1. Bối cảnh thế giới
3.1.1.1. Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế theo tiêu chuẩn mới
Tự do hóa kinh tế (thương mại, đầu tư, lao động...) tiếp tục diễn ra mạnh mẽ, bao hàm cả những yếu tố phi thương mại, khiến cho hội nhập kinh tế chứa đựng những tiêu chuẩn mới. Đó là các “FTA thế hệ mới” có phạm vi toàn diện, vượt ra ngoài khuôn khổ tự do hóa thương mại hàng hóa, như: FTA Việt Nam - EU (EVFTA); Hiệp định toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP); Hiệp định Đối tác thương mại và đầu tư xuyên Đại Tây Dương (T-TIP);các hiệp định thành lập EU; FTA Bắc Mỹ (NAFTA);.. Các FTA nói trên được coi là “thế hệ mới” vì nội dung của chúng không chỉ bao gồm các vấn đề thương mại, thuế quan thuần túy mà còn bao gồm cả các vấn đề “phi thương mại”, cụ thể như sau:
FTA thế hệ mới đề cập cả các nội dung vốn được coi là “phi thương mại” như: lao động, môi trường, cam kết phát triển bền vững và quản trị tốt,… Đây là cách tiếp cận mới trong quá trình toàn cầu hóa, vấn đề bảo đảm quyền lợi của người lao động ngày càng được coi trọng trên cơ sở coi người lao động là nguồn lực trực tiếp tạo ra sản phẩm trong thương mại quốc tế, nên trước hết họ phải được bảo đảm các quyền, lợi ích và các điều kiện lao động cơ bản. FTA “thế hệ mới” bao gồm các nội dung mới như: đầu tư, cạnh tranh, mua sắm công, thương mại điện tử, khuyến khích sự phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ, hỗ trợ kỹ thuật cho các nước đang phát triển cũng như dành thời gian chuyển đổi hợp lý để các nước đi sau có thể điều chỉnh chính sách theo lộ trình phù hợp với trình độ phát triển của mình,…
FTA “thế hệ mới” giải quyết các vấn đề trước đó một cách triệt để hơn: thương mại hàng hóa, bảo vệ sức khỏe động vật và thực vật trong thương mại quốc tế, thương mại dịch vụ, quyền sở hữu trí tuệ, tự vệ thương mại, quy tắc xuất xứ,