Đông dược - Trường trung cấp Tây Sài Gòn Dùng đào tạo Y sỹ Y học cổ truyền - 1


TRƯỜNG TRUNG CẤP TÂY SÀI GÒN


GIÁO TRÌNH ĐÔNG DƯỢC Dùng đào tạo Y sỹ YHCT Tài liệu lưu hành nội bộ Tp HCM 1


GIÁO TRÌNH

ĐÔNG DƯỢC

(Dùng đào tạo Y sỹ YHCT)


Tài liệu lưu hành nội bộ Tp HCM 07 2020 MỤC LỤC Đại cương về Y học cổ 2

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 193 trang tài liệu này.


Tài liệu lưu hành nội bộ

Tp.HCM. 07/2020


MỤC LỤC

Đại cương về Y học cổ truyền 3

Các học thuyết cơ bản của Y học cổ truyền. 14

Các tính năng của thuốc (tính năng dược vật) 23

Các nguyên nhân gây bệnh và nguyên tắc chữa bệnh theo YHCT 29

Tạng phủ và các hội chứng của tạng phủ 43

Phân loại đôn dược 58

Thuốc giải biểu 58

Thuốc khử hàn 73

Thuốc thanh nhiệt 81

Thuốc hóa đờm, chi khái, bình suyễn 107

Thuốc an thần 117

Thuốc lý khí 122

Thuốc lý huyết 129

Thuốc lợi thủy 140

Thuốc trừ thấp 147

Thuốc tả hạ 155

Thuốc tiêu đạo 161

Thuốc cổ sáp 164

Thuốc bổ dưỡng 168

Tài liệu tham khảo 183


MỤC TIÊU:


Chương 1

ĐẠI CƯƠNG VỀ ĐÔNG DƯỢC

(BÀI ĐỌC THÊM)

Sau khi học xong, học sinh có khả năng:

1. Trình bày được đặc điểm lịch sử của nền y học và dược học dân tộc Việt Nam qua các thời đại.

2. Trình bày khái quát 3 ý nghĩa của việc kết hợp y học hiện đại với y học cổ truyền.

3. Trình bày được những biện pháp cơ bản để thực hiện việc kết hợp y học hiện đại với y học cổ truyền.

NỘI DUNG:

1. Sơ lược lịch sử y học dân tộc Việt Nam qua các thời đại:

Nền y học cổ truyền Việt Nam được bắt nguồn từ một nền y học dân gian phong phú, thông qua thực tiễn nhiều đời, các kinh nghiệm quý báu đã được đúc kết và truyền lại cho đến ngày nay. Cơ sở lý luận của y học cổ truyền dựa trên các lý luận triết học duy vật cổ đại (học thuyết âm dương, ngũ hành…) và được vận dụng vào mọi lĩnh vực, từ phòng bệnh chẩn trị, xây dựng phương thuốc, bào chế thuốc, đến sử dụng thuốc. Y học cổ truyền vốn có một nền tảng vững chắc, dựa trên hệ thống lý luận đã được ghi chép thành văn bản. Nền y học dân gian Việt Nam lại được bổ sung thêm các kinh nghiệm dân gian, càng làm tăng tính phong phú cho y học cổ truyền. Vì thế, đây là một nền y học của dân, do dân, vì dân, có tính chất quần chúng rộng rãi, tính sáng tạo và tính nhân đạo sâu sắc. Y học cổ truyền Việt Nam được tiếp thu tinh hoa của nền y học nước ngoài. Đại y tôn Hải Thượng Lãn Ông là người đầu tiên có công Việt Nam hóa nền y học cổ truyền Việt Nam. Ngày nay, dưới ánh sáng các nghị quyết của Đảng cộng sản Việt Nam và được quan tâm của Bác Hồ vĩ đại, y học cổ truyền dân tộc Việt Nam ngày càng được phát triển.

1.1. Tình hình Y học cổ truyền thời thượng cổ:

Căn cứ vào những di chỉ được khảo sát ở các hang người vượn ở Thẩm Khuyến, Thẩm Hai (Lạng Sơn), Thẩm Óm (Nghệ An), những di tích sở kỳ đồ đá ở núi Đọ (Thanh Hóa), lưu vực sông Đồng Nai,… đã chứng minh rằng trên lãnh thổ Việt Nam, con người đã từng sinh sống cách đây hàng chục vạn năm. Các chứng minh quá trình phát triển từ người vượn thành người hiện đại ở Việt Nam diễn ra khá sớm, thông qua các dấu tích của người hiện đại (Homo-Sapiens) ở Hang Hùm (Hoàng Liên Sơn), Kéo Lèng (Lạng Sơn), hang Thung Lang (Hà Nam Ninh).


Thời Hồng Bàng và các vua Hùng 2879 - 257 trước công nguyên, từ năm 1110 TCN, người Việt Nam đã có tục ăn trầu (nhai lá Trầu tươi với hạt Cau, Vôi và rễ Vỏ), đồng thời có tục lệ nhuộm răng đen bằng phèn (Cánh kiến đỏ, Vỏ Lựu, Ngũ bội tử). Phong tục ăn trầu, nhuộm răng với mục đích bảo vệ răng miệng, làm chắc răng, thơm miệng, tránh sâu răng, giúp da mặt ấm áp, hồng hào, tươi tắn. Thói quen sử dụng Gừng, Tỏi, Ớt làm gia vị trong ăn uống hằng ngày, vừa giúp tiêu hóa tốt, vừa giúp phòng chống các bệnh đường ruột. Người dân miền núi còn có tập tục ăn Ý dĩ và uống nước củ Riềng để chống ẩm thấp và phòng chống sốt rét rừng.

Từ thế kỷ III TCN, nhân dân nước Âu Lạc (tên nước ta thời đó) đã biết nấu rượu để uống và làm thuốc.

Cuối thế kỷ III TCN, ở Nam Việt Giao Chỉ đã phát hiện các cây thuốc như Sắn dây, Gừng, Riềng, Đậu khấu, Ích trí, lá Lốt, Sả, Quế, Quan âm, Vông nem…

Năm 218, Tần Võ Đế dùng hoa Đậu khấu phá khí, tiêu đờm, tăng tửu lượng rất hiệu nghiệm; hoa Sơn khương trị khí lạnh, sản xuất ở Cửu Chân Giao Chỉ, Ông An Kỳ sinh đã lấy Xương bồ 9 đốt ở núi Lạng Gián (Đông Triều) Phía đông thành Phiêu Ngung ( Cổ loa) để uống rồi thành tiên. Hạp đẳng (Bàm bàm) còn gọi là Đậu voi dùng để giải các loại thuốc độc. Tân lang (Cau) ăn với Trần để hạ khí, tiêu cơm. Sau đó, hàng loạt các vị thuốc khác đã được phát hiện và sử dụng như: Mộc hương, An tức hương, Hương phụ, Giáng chân hương, Quế, Tê giác.

1.2. Tình hình y học cổ truyền từ 179 TCN đến 938 sau công nguyên:

Từ năm 179 TCN, nước Âu Lạc đã sát nhập với nước Việt Nam của Triệu Đà. Đến năm 111 TCN, cả nước Việt Nam đã bị nhà Hán thôn tính. Từ đó, nước ta đặt dưới quyền đô hộ của các triều đại Hán, Ngụy, Tần, Tống, Tề, Tùy, Đường. Đến năm 938 sau công nguyên, nước ta mới giành được độc lập. Trong thời gian này, người Trung Quốc đã lấy nhiều vị thuốc của chúng ta để đem về nước như: Ý dĩ, Sử quân tử, Hoắc hương, Đậu khấu, Sắn dây, Sả,…

Trong thơi gian này, nhiều thầy thuốc Trung Quốc cũng sang Việt Nam để hành nghề khám và trị bệnh. Năm 1187 - 226, Đồng Phụng đã sang chữa bệnh cho Sĩ Nhiếp. Năm 479 - 501, Lâm Thắng sang Việt Nam để trị khỏi bệnh thấp, bụng trướng của vợ Âm Kiên. Thân Quang Tôn đã thành công trong việc dùng Gừng khô, Hồ tiêu để trị bệnh buốt óc cho Tôn Trọng Ngạc.

Những sự kiện trên đã chứng tỏ rằng: sự giao lưu y học cổ truyền giữa Việt Nam và Trung Quốc đã có từ rất lâu.

1.3. Y học cổ truyền dưới các triều Ngô, Đinh, Lê, Lý (938 - 1224)

Năm 938, nền độc lập của nhà nước phong kiến Việt Nam được thiết lập. Mở đầu là nhà Ngô, tiếp theo là nhà Đinh, Lê, Lý. Dưới các triều đại này, chưa tìm thấy tài liệu nào ghi chép về hệ thống tổ chức y tế.

Đến nhà Lý, nước ta đã có nhiều thầy thuốc chuyên nghiệp, triều đình đã có Ty thái y, trong đó có các ngự y chuyên chăm sóc sức khỏe cho vua. Năm 1136, vua Lý


Thân Tông phát bệnh điên cuồng, mình mọc đầy lông dài, miệng luôn gào thét, đã được Minh Không thiền sư điều trị khỏi bằng cách cho tắm nước Bồ hòn.

1.4. Y học cổ truyền dưới triều nhà Trần (1225 - 1399)

Thời kỳ này, Nho học phát triển mạnh. Về y học, có Ty thái y sau nâng lên thành Viện thái y với chức năng chăm sóc sức khỏe cho vua quan trong triều đình, đồng thời có nhiệm vụ quản lý y tế trong cả nước. Khi có bệnh dịch, triều đình đã có chủ trương phát thuốc cho dân để chữa bệnh. Năm 1362, vua Trần Dụ Tông đã cho cấp phát tiền gạo và thuốc viên Hồng ngọc sương hoàn để chống dịch cho nhân dân ở hạt Tam Đới (Phú Thọ) và phủ Thiên Tường (Hà Nam Ninh).

Từ năm 1201, nhà Trần đã mở các khóa thi để tuyển lương y vào làm việc trong Viện thái y. Viện thái y đã chỉ đạo việc đào tạo thầy thuốc và có kế hoạch thu trữ, cấp phát dược liệu, phục vụ công tác trị bệnh cho vua quan và quân đội. Viện thái y đã thường xuyên tổ chức đi hái thuốc mọc hoang ở núi An Tử, Đông Triều. Lúc này, Phạm Ngũ Lão phụ trách việc trồng thuốc ở Phả Lại (vườn thuốc Vạn An và Dược Sơn xã Hưng Đạo, huyện Chi Lih ngày nay) để tự túc thuốc men, không phụ thuộc vào thuốc Trung Quốc (vì lúc này đang có sự bất hòa với phong kiến Nguyên Mông). Như vậy, ông cha ta đã tiến hành việc trồng thuốc và thu hái thuốc mọc hoang từ khá sớm. Trong thời này, Tuệ Tĩnh, một nhà sư, cũng là một lương y, đã gây dựng phong trào trồng thuốc ở các đền chùa, vườn nhà để phục vụ việc trị bệnh cho dân. Cũng từ đó, xuất hiện ý thức trồng cây thuốc trong cộng đồng người Việt, có những làng chuyên trồng thuốc như Đại Yên (Ba Đình - Hà Nội), Nghĩa Trai (Văn Lâm - Hải Hưng) mà ngày nay vẫn còn truyền thống.

Song song với việc dùng thuốc để trị bệnh, phương pháp châm cứu cũng được tin dùng hơn trước. Trâu Canh là con Trâu Tôn, thầy thuốc của quân Nguyên Mông bị bắt và xin ở lại Việt Nam làm nghề thuốc đã cứu sống Trần Hạo (Trần Dụ Tông), khi đó mới 4 tuổi, khỏi bị chết đuối.

Dưới thời nhà Trần, đã xuất hiện một số thầy thuốc tiêu biểu của Việt Nam

như:


- Phạm Công Bân (Cẩm Bình - Hải Dương) giữ chức Thái y lệnh từ 1278 - 1314, ngoài việc chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, ông còn bỏ tiền riêng để mua sắm thuốc men, dựng nhà nuôi dưỡng bệnh nhân nghèo bị tàn tật, hoặc trẻ mồ côi cơ nhỡ.

- Tuệ Tĩnh còn gọi là Nguyễn Bá Tĩnh đã đề xuất tư tưởng “Nam dược trị Nam nhân - thuốc Nam Việt chữa người Nam Việt”, dùng thang thuốc tại chỗ để chữa bệnh kịp thời. Ông đã biên soạn cuốn Nam dược thần hiệu với 499 vị thuốc và các phương thuốc nam dùng điều trị 184 loại bệnh. Quyển sách của ông đã được Hòa thượng bản lai biên tập, bổ sung và in khắc lại năm 1761. Quyển Nam được chỉnh bản (có tựa của Chúa Trịnh-1717) gồm 2 quyển Nam dược quốc ngũ phủ gồm 590 vị thuốc và Trực giải chỉ nam dược tính phủ gồm 220 vị. Sau này đổi tên là Hồng nghĩa giác tư y thư.


Một số tác phẩm của Tuệ Tĩnh đã nổi bật lên đạo đức và đường hướng y học của ông. Trong thời gian này, nhiều vị thuốc được phát hiện như Hoàng nàn, Hoàng đẳng, Hồng lực, Độc lực, Tân lang, Đơn lá đỏ, Vỏ lựu… Đồng thời, Tuệ Tĩnh đã bước đầu chia bệnh thành 10 khoa.

1.5. Y học thời nhà Hồ và thời thuộc Minh (1400 - 1427)

Triều đình nhà Hồ có chủ trương chữa bệnh rộng rãi cho nhân dân, đã lập Quảng tế tự, tổ chức các cơ sở chữa bệnh ở địa phương. Trong thời kỳ này, có Nguyễn Đại Năng giữ chức tá nhị ở Viện thái y, ông đã biên soạn tài liệu Châm cứu tiệp liệu diễn ca, phát hiện nhiều huyệt mới để chữa các bệnh hiểm nghèo (sốt rét, động kinh). Ngoài ra, Vũ Toàn Trai (Hải Hưng), Úy Công Tuân (Tiên Sơn, Hà Bắc) cũng đã biên soạn được một số tác phẩm châm cứu giá trị.

1.6. Y học dưới Triều Lê (1428 - 1788)

Dưới triều đại nhà Lê, Lê Nhân Tông rất chú trọng phát triển nền y học cổ truyền, lúc này đã có quan hệ trao đổi sản vật lấy thuốc Bắc của Trung Quốc.

Nhà Lê rất quan tâm đến việc chăm sóc sức khỏe cho nhân dân. Luật Hồng Đức đã đưa ra quy chế hành nghề y. Trong đó, có các điều luật trừng phạt những thầy thuốc vụ lợi, có tính chữa bệnh dây dưa hoặc chữa khoản; có quy chế vệ sinh xã hội; nghiêm trị những người chế tạo và bán thuốc độc. Cuốn sách “Bảo sinh diên thọ toàn yếu” hướng dẫn giữ vệ sinh, luyện tập vận động thân thể để tăng tuổi thọ.

Về tổ chức y tế, ở triều đình có Viện thái y, đứng đầu là Đại sứ có các chánh phó ngự y giúp việc chữa bệnh cho vua, chánh phó lương y để chữa bệnh cho hoàng gia và quan lại. Ở sáu viện có các kho thuốc do các Viên tư dược và Trường dược phụ trách việc phân phối cấp phát thuốc điều trị. Trong Viện thái y có khoa huấn luyện y học. Tại các tỉnh có Tể sinh đường, có các khán chắn để khám bệnh và chức sứ trông coi kho thuốc và cấp phát thuốc, các chánh phó lương y chịu trách nhiệm chăm sóc sức khỏe cho tướng sĩ quân đội.

Trong thời kỳ này có các lương y nổi tiếng như:

- Lương y Nguyễn Trực nghiên cứu điều trị bệnh trẻ em bằng xoa bóp, bấm huyệt, đốt bấc, sở trường điều trị bệnh sởi, đậu ma.

- Lương y Chu Doãn Văn (Thanh Trì) với các y án trị bệnh ngoại cảm, đã biên soạn 4 thiên lý luận cơ bản rất súc tích.

- Lương y Hoàng Đồn Hòa (Thanh Oai-Hà Tây) đã thành công trong việc dùng thuốc hoàn chế sẵn và dược liệu trồng tại chỗ để chữa bệnh, đặc biệt là bệnh sốt rét và thổ tả…

Ngoài ra, còn có nhiều các danh y khác như: Nguyễn Đạo An, Lê Đức Vong, Đào Công Chính, Tạ Chất Phác, Trần Hải Yến… đã góp nhiều công lao cho nền y học cổ truyền.

Đặc biệt trong thời kỳ này, danh y Lê Hữu Trác (1720-1791) đã nổi bật lên như một ngôi sao sáng trong nền y học cổ truyền Việt Nam, thường gọi là Hải Thượng Lãn Ông (Hải Hưng). Ông đã để lại một kho kinh nghiệm quý báu, đúc kết qua nhiều


thế hệ các nhất y học cổ truyền Việt Nam và Trung Quốc với bộ sách khổng lồ Lãn Ông Tâm Lĩnh, sau đổi tên thành Hải Thượng Y Tôn Tâm Lĩnh (gồm 28 tập, 66 quyển) để phổ cập đào tạo thầy thuốc và lưu truyền hậu thế. Để ghi nhớ công ơn ông, ngành y tế Việt Nam đã lấy ngày mất của ông 15-1 (âm lịch) làm ngày truyền thống của những người làm công tác y học cổ truyền Việt Nam.

1.7. Y học cổ truyền dưới triều Tây Sơn (1789 - 1802)

Kết quả của sự chia cắt đất nước lâu dài (Trịnh Nguyễn phân tranh) làm cho nhân dân vô cùng khốn khổ, bệnh tật phát triển. Thái y viện đã tăng cường việc chống dịch ở các địa phương. Chính quyền lúc đó đã thành lập Nam dược cục, mời các lão y về nghiên cứu thuốc Nam. Đứng đầu là lương y Nguyễn Hoành (Thanh Hóa), ông đã biên soạn 500 vị thuốc từ cây cỏ có sẵn tại địa phương và 130 vị thuốc lấy từ các loại chim, cá, kim, thạch trong nước.

1.8. Y học cổ truyền dưới triều Nguyễn (1802 - 1883)

Nhà Nguyễn đã lập các Tế sinh đường ở các tỉnh, sau đổi thành Ty lương y. Những người tàn tật nghèo khổ được nuôi dưỡng ở Dưỡng tế sự của các tỉnh. Viện thái y có quy định cụ thể các chức quan phụ trách việc bào chế, kiểm tra, đóng gói, sắc thuốc…

Năm 1856, vua Tự Đức cho mở trường dạy thuốc ở Huế, Nhà Nguyễn đã đặt ra những quy chế riêng về nghề y, trừng phạt các thầy thuốc trị bệnh sai, gây tử vong, hoặc cố tình gây nguy hiểm cho người bệnh. Luật Gia Long còn quy định các điều khoản để trừng phạt người điều trị bệnh trái phép, gây chết người.

1.9. Y học cổ truyền dưới thời Pháp thuộc (1884 - 1945)

Sau khi chiếm được nước ta, người Pháp đã tiến hành tổ chức hệ thống y tế nước ta theo cách tây y. Thành lập các nhà thương ở thành phố, bệnh xá ở các tỉnh lỵ. Lúc đầu, các nhà thương, bệnh xá này đều do thầy thuốc nhà binh phụ trách. Từ năm 1905, các bệnh viện, bệnh xá do giám đốc y tế của 3 kỳ lãnh đạo dưới quyền của thanh tra y tế Đông Dương, Các Ty lương y ở Nam triều bị giải tán.

Y hoc cổ truyền không còn nằm trong hệ thống y tế nhà nước. Tuy vậy, những người dân nghèo ở nông thôn và miền núi vẫn tiếp tục chữa bệnh bằng các phương pháp y học cổ truyền. Y học cổ truyền bị thực dân Pháp chèn ép đè nén. Pháp hạn chế số người làm nghề y học cổ truyền, chỉ cấp thẻ môn bài cho không quá 500 người hành nghề y học cổ truyền ở Nam bộ. Mặc dù vậy, y học cổ truyền vẫn cố gắng tìm cách hoạt động để giữ gìn vốn quý của cha ông. Hội y học Trung kỳ được thành lập ngày 14/09/1436, đã phát hành 46 sổ tạp chí y học.

1.10. Y học cổ truyền Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám (1945) đến nay

Sau khi giành được chính quyền, Bác Hồ và Đảng ta đã rất quan tâm đến nền y học cổ truyền. Trong thư gửi cán bộ y tế 27/02/1955. Bác đã viết “ Y học phải dựa trên nguyên tắc khoa học, dân tộc, đại chúng. Ông cha ta ngày trước có nhiều kinh nghiệm quý báu về cách chữa bệnh bằng thuốc ta, thuốc Bắc. Để mở rộng phạm vi y


học, các cô, các chú cũng nên chú trọng nghiên cứu và phối hợp thuốc Đông với thuốc Tây”.

Các chỉ thị 101 TTg ngày 15/03/1961, 21CP ngày 19/02/1967 và 26CP ngày 19/10/1978 đã quy định “Trên cơ sở khoa học thừa kế và phát huy những kinh nghiệm tốt của đông y, kết hợp với tây y, tăng cường khả năng phòng bệnh chữa bệnh và tiến tới xây dựng nền y học Việt Nam”.

Điều 49 chương III, Hiến pháp nước CHXHCNVN có ghi “Phát triển và hoàn thiện hệ thống bảo vệ sức khỏe nhân dân trên cơ sở kết hợp y học, dược học hiện đại với y học cổ truyền”.

Ngày 04/11/1955, Bộ y tế có công văn số 9/26 YD/PBCB hướng dẫn các địa phương khai thác và sử dụng thuốc nam.

Ngày 12/04/1956, Bộ y tế tổ chức Phòng Đông y trong Vụ chữa bệnh, chuyên trách Nghiên cứu đông y.

Theo nghị định số 339 NV/DC ngày 03/6/1957, Hội Đông y Việt Nam (nay là Hội Y học cổ truyền Việt Nam) được phép thành lập với mục đích đoàn kết những người hành nghề và nghiên cứu đông y, đông dược, phối hợp với Bộ Y tế trong công tác lãnh đạo giới đông y về tư tưởng, chuyên môn nghiệp vụ.

Vụ Đông y dược thành lập để giúp đỡ Bộ y tế lãnh đạo công tác đông y trong toàn ngành y tế. Đồng thời, theo nghị định số 238/TT của Thủ tướng chính phủ, Viện nghiên cứu Đông y (nay là Viện y học cổ truyền Việt Nam) được thành lập với nhiệm vụ nghiên cứu và ứng dụng lâm sàng các phương pháp chẩn đoán bệnh, trị bệnh bằng thuốc và không dùng thuốc, nắn bó gãy xương bằng phương pháp đông y, dùng phương pháp khoa học hiện đại để chứng minh, so sánh.

Từ đó, nhiều vườn thuốc mẫu về y học cổ truyền được thành lập từ Trung ương (Viện, Trường đại học Dược), và các địa phương đến các xã, với mục đích giúp cho sinh viên, học viên học tập và nhân dân các địa phương biết các cây thuốc để chữa bệnh.

Đến năm 1988, ở hầu hết các tỉnh, thành phố trong cả nước đều có khoa y học dân tộc trong các bệnh viện đa khoa. Có hơn 4000 cơ sở y tế sử dụng thuốc nam. Đã đào tạo được hơn 2000 dược sĩ chuyên khoa dược liệu, hơn 4000 y sĩ y học cổ truyền. Hiện nay, đang tiếp tục đào tạo lại và đào tạo đại học về y dược học cổ truyền.

Dưới sự lãnh đạo của Đẳng CSVN, với phương châm đúng đắn của Bộ y tế chúng ta sẽ vươn tới một nền y tế Việt Nam có tiền đồ rực rỡ. Điều đó càng được thể hiện rõ nét trong Nghị quyết lần thứ 4 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VII, các nghị quyết hội nghị lần thứ 3, Nghị quyết hội nghị lần thứ 4 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII; Nghị quyết số 37/CP ngày 20/06/1966 của Chính phủ, về “Định hướng chiến lược công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân trong thời gian 1996-2000 và chính sách quốc gia về thuốc của Việt Nam” được ban hành. Trên cơ sở thừa hưởng vốn quý của nền y học cổ truyền lâu đời của dân tộc ta, kết hợp một cách khéo léo những thành tựu y học hiện đại của thế giới, chúng ta sẽ có một nền y tế

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 01/10/2023