Quy Định Về Thông Báo Trong Đơn Phương Chấm Dứt Thực Hiện Hợp Đồng Dân Sự

thầu, như: chiến tranh, bạo loạn, đình công, hỏa hoạn, thiên tai, lũ lụt, dịch bệnh, cách ly do kiểm dịch, cấm vận)… Trường hợp bất khả kháng thì thanh toán theo thỏa thuận trong hợp đồng (nếu có) [3].

Tuy nhiên, quy định trên chưa đề cập đến việc chấm dứt hợp đồng do có sự kiện bất khả kháng.

Dù vậy, pháp luật nước ta hiện có một quy định về chấm dứt HĐDS do sự kiện bất khả kháng: khoản 1 Điều 21 Nghị định số 108/2009/NĐ-CP ngày 27/11/2009 về đầu tư theo hình thức Hợp đồng Xây dựng - Kinh doanh - Chuyển giao, Hợp đồng Xây dựng - Chuyển giao - Kinh doanh, Hợp đồng Xây dựng - Chuyển giao quy định: "1. Hợp đồng dự án chấm dứt hiệu lực do kết thúc thời hạn đã thỏa thuận hoặc kết thúc trước thời hạn do lỗi vi phạm của một trong các bên mà không có biện pháp khắc phục có hiệu quả, do sự kiện bất khả kháng hoặc các trường hợp khác quy định tại Hợp đồng dự án" [4]. Quy định này đã coi sự kiện bất khả kháng là một lý do để chấm dứt hợp đồng, trong đó có ĐPCDHĐ.

Có thể thấy, vấn đề thay đổi hoàn cảnh làm cho việc thực hiện hợp đồng trở nên khó khăn hơn và tăng chi phí thực hiện hợp đồng không phải là tình huống ít diễn ra trong thực tiễn pháp lý Việt Nam. Về thực tiễn, có nhiều vụ tranh chấp phát sinh trong thực tiễn pháp lý ở Việt Nam, nhưng do quy định về vấn đề này trong luật thực định còn thiếu sót, nên đã gây ra nhiều khó khăn cho các bên liên quan trong việc áp dụng pháp luật. "Bộ luật Dân sự 2005 chưa đưa ra các quy định đủ để xử lý các trường hợp không thể thực hiện được hợp đồng và ngoại lệ của nguyên tắc thực hiện nghiêm chỉnh hợp đồng" [5]. Sự thiếu vắng các quy định loại này trong pháp luật Việt Nam hiện hành đã cho thấy sự phản ứng quá thận trọng (nếu không nói là quá chậm chạp) của nhà lập pháp Việt Nam, làm cho các tranh chấp loại này không có căn cứ pháp lý để giải quyết thỏa đáng. Đó cũng là nguyên nhân làm cho việc quyết vấn đề này của tòa án hiện vẫn còn chưa nhất quán. PGS.TS Phạm Duy

Nghĩa có lý khi ông cho rằng, sự thiếu sót trên đây có thể được xem như là một trong những biểu hiện của sự "lạc hậu" của pháp luật hợp đồng nước ta vì "không đáp ứng được nhu cầu quản lý rủi ro thời nay" [20, tr. 40].

Pháp luật về nước ta cần nghiên cứu áp dụng các quy định của pháp luật nước ngoài về chấm dứt HĐDS do sự kiện bất khả kháng để bảo vệ quyền lợi cho chủ thể. Khoản 1 Điều 21 Nghị định số 108/2009/NĐ-CP có thể áp dụng rộng rãi hơn. Khi thực hiện hợp đồng, nếu một bên gặp hoàn cảnh khó khăn do sự kiện bất khả kháng thì có thể chọn một trong các cách là: thứ nhất là đề nghị thỏa thuận lại hợp đồng, nếu không thỏa thuận được thì ĐPCDHĐ; thứ hai là chọn ĐPCDHĐ ngay.

2.1.4. Quy định về thông báo trong đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng dân sự

Thông báo chính là cách thể hiện ý chí của bên có quyền ĐPCDHĐ. Trong trường hợp bình thường thông báo, việc chấm dứt hợp đồng chỉ xảy ra sau khi hết thời hạn thông báo (15 ngày, ngày cuối cùng của tháng, …); bất thường thông báo (với một hiệu ứng tức thì) thường có thể được áp dụng chỉ như là một chế tài với bên kia. Thường thông báo là cơ hội điển hình cho chấm dứt hợp đồng đã ký kết trong một khoảng thời gian vô hạn về thời gian, mà không cần lý do, tuy nhiên, các hợp đồng ký kết có thời hạn về thời gian có thể thường không được kết thúc với một thông báo bình thường chỉ với một thông báo bất thường, và lý do phải được cung cấp. Bộ nguyên tắc PICC của UNIDROIT về hợp đồng thương mại quốc tế quy định: "1. Khi được yêu cầu, một thông báo có thể được thực hiện dưới bất kỳ cách thức phù hợp với hoàn cảnh… 3. Một thông báo đến bên nhận khi bên này được thông báo bằng miệng hoặc thông báo được giao đến trụ sở hay địa chỉ thư tín của bên này" [21, Điều 1.10]. Như vậy thông báo được thể hiện dưới hai hình thức cơ bản là bằng miệng (thông báo trực tiếp) hoặc thông báo được giao đến trụ sở hay địa chỉ thư tín của bên kia (thông báo gián tiếp). Tại sao phải thông báo? Bởi vì tại thời điểm

giao kết, hợp đồng có hiệu lực với các bên giao kết còn tại thời điểm chấm dứt hợp đồng, hợp đồng hết hiệu lực. Thời điểm chấm dứt hợp đồng phụ thuộc vào thời điểm bên bị chấm dứt hợp đồng nhận được thông báo.

Khoản 2 Điều 426 BLDS năm 2005 quy định: "Bên đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng phải thông báo ngay cho bên kia biết về việc chấm dứt hợp đồng, nếu không thông báo mà gây thiệt hại thì phải bồi thường" [27]. Như vậy, bên có quyền ĐPCDHĐ có nghĩa vụ thông báo việc ĐPCDHĐ với bên kia. Vấn đề rất quan trọng là thời gian thông báo như thế nào thì BLDS năm 2005 quy định chưa rõ. Khi bên có nghĩa vụ có sự chậm trễ trong việc thực hiện nghĩa vụ hoặc không thực hiện nghĩa vụ hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ, bên có quyền ĐPCDHĐ có bắt buộc phải thông báo cho bên kia về việc vi phạm nghĩa vụ hay không? Theo quy định trên, bên có quyền ĐPCDHĐ sẽ mất quyền này nếu không thông báo cho bên kia trong một thời hạn hợp lý. Do đó việc thông báo này được coi như một nghĩa vụ của bên có quyền ĐPCDHĐ. Hơn nữa, nếu như bên có quyền này không thông báo về việc chấm dứt hợp đồng mà họ không thực hiện nghĩa vụ của mình với bên kia, dẫn đến việc gây thiệt hại thì họ phải BTTH. Bên cạnh đó, tùy từng trường hợp, từng loại hợp đồng mà bên có quyền ngoài việc phải thông báo ngay cho bên kia về việc chấm dứt hợp đồng mà còn phải thông báo trước một thời gian hợp lý. BLDS năm 2005 có một số quy định sau về thời gian thông báo ĐPCDHĐ:

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 129 trang tài liệu này.

* Khoản 3 Điều 498 quy định: "Bên đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng thuê nhà phải báo cho bên kia biết trước một tháng, nếu không có thoả thuận khác" [27]. Như vậy, nếu như các bên không có thỏa thuận khác thì bên nào có quyền ĐPCDHĐ phải thông báo cho bên kia biết trước một tháng. Quy định này chỉ đúng với trường hợp bên cho thuê nhà ĐPCDHĐ, đưa ra thời hạn thông báo để bên thuê nhà biết và chuẩn bị nơi ở mới; tuy nhiên với trường hợp bên thuê nhà ĐPCDHĐ thì việc đưa ra thời hạn thông báo là không hợp lý, bởi họ được phép chấm dứt hợp đồng khi mục đích thuê, quyền và lợi ích của họ rõ ràng không được đảm bảo (bên thuê nhà có quyền

ĐPCDHĐ thuê nhà khi bên cho thuê có một trong các hành vi sau đây: a) Không sửa chữa nhà khi chất lượng nhà giảm sút nghiêm trọng; b) Tăng giá thuê nhà bất hợp lý; c) Quyền sử dụng nhà ở bị hạn chế do lợi ích của người thứ ba). Do đó, bên thuê nhà chỉ cần đưa ra thông báo đột xuất với hiệu ứng tức thì (có hiệu lực ngay lập tức) như là một chế tài với bên kia.

Đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 - 10

* Khoản 1 Điều 510 quy định: "Trong trường hợp một bên đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng thì phải báo cho bên kia biết trước một thời gian hợp lý; nếu thuê khoán theo thời vụ hoặc theo chu kỳ khai thác thì thời hạn báo trước phải phù hợp với thời vụ hoặc chu kỳ khai thác" [27]. Tương tự, khoản 1 Điều 525 quy định bên thuê dịch vụ "… phải báo trước cho bên cung ứng dịch vụ biết trước một thời gian hợp lý" [27], khoản 1 Điều 556 quy định các bên của hợp đồng gia công khi có quyền ĐPCDHĐ "…phải thông báo cho bên kia biết trước một thời gian hợp lý" và khoản 1 Điều 588 quy định: "… nếu ủy quyền không có thù lao bên ủy quyền có thể chấm dứt hợp đồng bất kỳ lúc nào, nhưng phải báo trước cho bên được ủy quyền một thời gian hợp lý" [27]. Có hai vấn đề được đặt ra qua xem xét các quy định trên: thứ nhất "thời gian hợp lý" được xác định như thế nào; thứ hai là trong thời hạn thông báo về việc chấm dứt hợp đồng thì các bên có thực hiện tiếp nghĩa vụ không?

+ Bên ĐPCDHĐ phải thông báo trước một thời gian hợp lý, tức là đưa ra một hạn chót về việc hợp đồng được chấm dứt. Thời hạn hợp lý này có thể được các bên thỏa thuận trong hợp đồng, hoặc theo một quy định pháp lý hoặc có thể áp dụng tiền lệ, tập quán với từng loại hợp đồng cụ thể. Xét tới cùng thì việc xác định cơ sở để tính thời hạn hợp lý đều phải dựa vào bản chất của từng hợp đồng. Ví dụ, theo khoản 1 Điều 499 BLDS năm 2005 quy định "Hợp đồng thuê nhà chấm dứt khi thời hạn thuê đã hết, nếu hợp đồng không xác định thời hạn thuê thì hợp đồng chấm dứt sau sáu tháng, kể từ ngày bên cho thuê báo cho bên thuê biết về việc đòi nhà" [27]. Trong trường hợp không có sự vi phạm hợp đồng của bên thuê nhà thì bên cho thuê nhà chỉ được chấm dứt hợp đồng khi báo trước sáu tháng cho bên thuê nhà. Vậy khi có sự vi

phạm hợp đồng của bên thuê nhà thì bên cho thuê nhà chỉ phải báo trước một thời gian chắc chắn là nhỏ hơn sáu tháng. Xét về bản chất, bên có quyền được ĐPCDHĐ khi có sự vi phạm của bên đối tác và sự vi phạm này không thể khắc phục nếu tiếp tục thực hiện hợp đồng nên việc đặt ra thời hạn báo trước là không cần thiết. Chỉ trong một số trường hợp đặc biệt mà ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của bên vi phạm thì bên ĐPCDHĐ mới phải báo trước như: hợp đồng thuê nhà, hợp đồng thuê khoán… BLDS năm 2005 cũng không quy định thời hạn báo trước đối với một số loại hợp đồng như: hợp đồng thuê tài sản, hợp đồng thuê dịch vụ với trường hợp bên cung ứng dịch vụ nghiêm trọng nghĩa vụ, hợp đồng vận chuyển hành khách, hợp đồng gia công có sự vi phạm nghĩa vụ của bên nhận gia công, hợp đồng bảo hiểm, hợp đồng thuê quyền sử dụng đất. Như vậy, phải chăng trong các trường hợp này, bên có quyền ĐPCDHĐ chỉ phải đưa ra một thông báo bất thường hay còn gọi là thông báo đột xuất có hiệu lực ngay lập tức.

+ Trong thời hạn thông báo chấm dứt hợp đồng thì các bên có thực hiện tiếp nghĩa vụ của hợp đồng? Với ĐPCDHĐ khi có vi phạm của bên đối tác, chỉ xảy ra khi có sự vi phạm hợp đồng của bên đối tác, sự vi phạm này không thể khắc phục và không thể tiếp tục thực hiện hợp đồng được nữa cho nên bên có quyền và lợi ích liên quan nếu phát hiện ra sự vi phạm nghiêm trọng hợp đồng của bên đối tác thì có quyền yêu cầu chấm dứt ngay hành vi phạm. Khoản 2 Điều 706 BLDS năm 2005 về quyền của bên cho thuê quyền sử dụng đất quy định "… nếu bên thuê không chấm dứt ngay hành vi vi phạm thì bên cho thuê có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng, yêu cầu bên thuê trả lại đất đang thuê và bồi thường thiệt hại" [27]. Bên thuê quyền sử dụng đất nếu vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ của người sử dụng thì bên cho thuê có quyền yêu cầu bên vi phạm chấm dứt ngay hành vi vi phạm, nếu không chấm dứt thì bên cho thuê có quyền ĐPCDHĐ và điều này cũng được tác giả nêu ở phần đặc điểm của chương 1, đó là hợp đồng bắt buộc phải được chấm dứt để bảo vệ quyền và lợi ích cho bên có quyền. Do đó, với trường hợp

có sự vi phạm của bên đối tác, trong thời hạn thông báo về việc ĐPCDHĐ thì bên vi phạm không được tiếp tục thực hiện nghĩa vụ nữa, bởi việc tiếp tục thực hiện nghĩa vụ sẽ đồng nghĩa với việc tiếp tục vi phạm hợp đồng. Hơn nữa, như đã phân tích ở phần trên, trong trường hợp ĐPCDHĐ này, bên có quyền ĐPCDHĐ thường chỉ cần thông báo đột xuất đên bên vi phạm nghĩa vụ, do đó khi bên vi phạm chắc chắn là không được thực hiện tiếp nghĩa vụ của hợp đồng. Ví dụ, đối với hợp đồng thuê tài sản, nếu như bên thuê sử dụng tài sản không đúng mục đích, sau khi bên này nhận được thông báo về việc ĐPCDHĐ, nếu như bên này vẫn tiếp tục thực hiện hợp đồng, đồng nghĩa với việc tiếp tục sử dụng tài sản thuê không đúng mục đích, có thể dẫn đến hủy hoại, hoặc giảm sút giá trị sử dụng của tài sản, do đó bên thuê tài sản phải chấm dứt ngay việc thực hiện tiếp hợp đồng. Còn với hợp đồng thuê nhà ở và thuê khoán, do ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của bên thuê nên cần thông báo về việc ĐPCDHĐ trước một thời gian hợp lý, do đó trong thời gian này, bên vi phạm vẫn được tiếp tục thực hiện hợp đồng nhưng chỉ được thực hiện trong một chừng mực nhất định, đồng thời phải cam kết về việc không được tiếp tục vi phạm hợp đồng trong khoảng thời gian kể từ khi nhận được thông báo chấm dứt hợp đồng đến khi hết thời hạn này.

Với ĐPCDHĐ khi không có sự vi phạm của bên đối tác thì do xuất phát từ lợi ích của riêng bên có quyền ĐPCDHĐ hoặc bên thực hiện nghĩa vụ bị lâm vào hoàn cảnh khó khăn không thể tiếp tục thực hiện hợp đồng, bên đối tác không có sự vi phạm hợp đồng nên trong thời hạn thông báo chấm dứt hợp đồng các bên vẫn phải thực hiện nghĩa vụ và tiến hành hoàn tất, thanh lý hợp đồng.

2.1.5. Quy định về hậu quả pháp lý của đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng dân sự

Theo khoản 3 Điều 426 BLDS năm 2005: HĐDS bị đơn phương chấm dứt thì "chấm dứt từ thời điểm bên kia nhận được thông báo chấm dứt", kể từ đó "… các bên không phải tiếp tục thực hiện hợp đồng. Bên đã thực hiện

nghĩa vụ có quyền yêu cầu bên kia thanh toán" và khoản 4 Điều trên quy định: "… Bên có lỗi trong việc hợp đồng bị đơn phương chấm dứt thực hiện phải bồi thường thiệt hại" [27]. So với quy định tại Điều 420 BLDS năm 1995 thì quy định tại Điều 426 BLDS năm 2005 có thêm khoản 4 nói trên và việc BTTH đã được đưa vào quy định chung về ĐPCDHĐ. Theo quy định này thì bên có lỗi trong việc hợp đồng bị ĐPCD phải BTTH. Như vậy, thông thường nếu một bên ĐPCDHĐ do bên kia vi phạm nghĩa vụ đã thoả thuận trong hợp đồng thì bên có quyền ĐPCDHĐ không phải BTTH mà là bên vi phạm (có lỗi). Trong trường hợp một bên ĐPCDHĐ khi không có lỗi của đối tác mà vì việc tiếp tục thực hiện hợp đồng "không có lợi cho mình" thì bên nào phải BTTH? "Nếu một bên chấm dứt thực hiện hợp đồng do nhận thấy hợp đồng không có lợi cho mình thì theo quy định của pháp luật họ có quyền ĐPCDHĐ nhưng phải bồi thường thiệt hại, nếu vì việc chấm dứt đó mà gây thiệt hại cho bên kia" [40, tr. 274]. Quan điểm này hợp lý vì như vậy bảo vệ được quyền lợi cho bên bị chấm dứt hợp đồng khi bên này không có lỗi. Vì vậy cần bổ sung quy định: Nếu một bên ĐPCDHĐ khi bên kia không có lỗi và việc ĐPCDHĐ gây thiệt hại cho bên kia thì bên ĐPCDHĐ phải BTTH.

Cụm từ "yêu cầu bồi thường thiệt hại" được đề cập khá nhiều trong các quy định về ĐPCDHĐ chuyên biệt trong BLDS năm 2005 nhưng thiệt hại phải bồi thường là những gì, mức bồi thường là bao nhiêu và được xác định như thế nào thì chưa có quy định cụ thể. Thông thường khi có sự vi phạm hợp đồng thì đồng nghĩa với việc bên vi phạm đã gây ra một thiệt hại cho bên đối tác, do đó trước khi bên đối tác ra quyết định ĐPCDHĐ thì đã có một thiệt hại xảy ra và xác định. Thiệt hại được bồi thường ở đây có thể bao gồm cả các thiệt hại do hành vi vi phạm gây ra cũng như các thiệt hại có liên quan đến quá trình thực hiện quyền ĐPCDHĐ. Bộ nguyên tắc UNIDROIT về hợp đồng thương mại quốc tế quy định: "thiệt hại bao gồm những tổn thất mà bên này đã phải gánh chịu và những lợi ích bị mất đi, có tính đến mọi khoản lợi cho bên có quyền từ một khoản chi phí hay tổn thất tránh được. Thiệt hại có thể là phi

tiền tệ và bắt nguồn đặc biệt từ nỗi đau thể chất hoặc tinh thần" [21, Điều 7.4.2]. Tuy nhiên, thiệt hại phải có tính xác thực, kể cả thiệt hại trong tương lai, chỉ có thể được bồi thường khi chúng được thiết lập với một mức độ hợp lý về tính xác thực, sự mất cơ hội có thể được bồi thường trong phạm vi của khả năng thành hiện thực của cơ hội, ví dụ: bên nhận gia công ĐPCDHĐ có thể làm mất đi cơ hội kinh doanh của bên đặt gia công. Khi không thể thiết lập với một mức độ đầy đủ tính xác thực về khoản tiền bồi thường thì thiệt hại được xác định tuỳ theo toà án. Bên có quyền ĐPCDHĐ chỉ chịu trách nhiệm với những thiệt hại mà mình đã dự đoán trước hoặc đã có thể dự đoán trước một cách hợp lý, vào thời điểm giao kết hợp đồng như là một hậu quả có thể xảy ra từ việc không thực hiện hợp đồng theo như thỏa thuận. Ngoài ra thiệt hại còn được xác định theo giá thị trường, Bên có quyền yêu cầu BTTH có thể đòi bồi thường cho khoản chênh lệch giữa giá thỏa thuận ban đầu của hợp đồng và giá trên thị trường tại thời điểm ĐPCDHĐ nếu tồn tại giá thị trường cho nghĩa vụ thỏa thuận, cũng tương tự như đòi bồi thường cho những thiệt hại bổ sung. Giá trên thị trường là giá nói chung được trả cho hàng hóa, dịch vụ cung ứng trong những hoàn cảnh có thể so sánh được ở nơi mà lẽ ra phải thực hiện hoặc, khi không xác định được giá thị trường của nơi này, là giá thị trường được trả ở một nơi khác mà xét thấy hợp lý lấy để xác định.

Theo tác giả, thiệt hại ở đây được xác định là mức thiệt hại đã xảy ra trên thực tế, căn cứ vào giá trị hợp đồng mà trên thực tế hai bên đã thực hiện chứ không phải căn cứ vào giá trị của toàn bộ hợp đồng mà hai bên đã giao kết, bởi trong quá trình thực hiện hợp đồng có thể gặp rủi ro, giá cả biến động, đối tượng của hợp đồng là vật đặc định không còn… Do đó, việc xác định mức thiệt hại phải xác thực với phần hợp đồng đã được thực hiện và dự đoán khả năng thực hiện hợp đồng trong tương lai để đảm bảo cho quyền và lợi ích cho các bên trong hợp đồng.

BTTH là cần thiết đối với bên bị ĐPCDHĐ, bởi thiệt hại có thể là về vật chất, có thể là về tinh thần hoặc cả hai do hợp đồng không được thực hiện

Xem tất cả 129 trang.

Ngày đăng: 11/04/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí