phẩm bảo hiểm nhân thọ thường rất đa dạng (mỗi sản phẩm chỉ đáp ứng được một hoặc một vài nhu cầu) và hoạt động tiếp thị sản phẩm này phải mang tính năng động và linh hoạt cao.
- Bảo hiểm nhân thọ là loại hình bảo hiểm duy nhất cho phép bảo hiểm cho hai sự kiện trái ngược nhau là sống và chết. Điều này cũng có nghĩa là, trong tuyệt đại đa số trường hợp, việc doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền với một hợp đồng bảo hiểm nhân thọ là chắc chắn xảy ra (phân biệt với bảo hiểm phi nhân thọ - là loại hình bảo hiểm chỉ trả tiền khi có rủi ro xảy ra).
- Bảo hiểm nhân thọ là loại hình bảo hiểm dài hạn, do đó điều khoản hợp đồng phải được trình bày đầy đủ, khoa học dưới dạng văn bản, làm cơ sở cho sự duy trì quan hệ hợp đồng dài nhiều chục năm, thậm chí là cả đời người. Mặt khác, các thông số kỹ thuật của từng sản phẩm, từng hợp đồng phải được tính toán cẩn thận và công bố rõ ràng tới khách hàng. Đồng thời, dịch vụ khách hàng là khâu quyết định có tính chất sống còn tới việc duy trì hợp đồng bảo hiểm.
- Bảo hiểm nhân thọ là loại hình sản phẩm bảo hiểm vô hình. Vì vậy, công ty bảo hiểm phải đặc biệt quan tâm đến việc giải thích cho khách hàng hiểu rõ về sản phẩm. Hơn nữa, việc thực hiện đúng và đầy đủ cam kết là đòi hỏi nghiêm ngặt đối với các công ty bảo hiểm.
Có thể thấy bảo hiểm nhân thọ có những đặc điểm cơ bản là:
- Đối tượng của bảo hiểm nhân thọ là con người, nhưng không như bảo hiểm sinh mạng hay bảo hiểm tai nạn con người trong bảo hiểm phi nhân thọ, chỉ rủi ro chết hay thương tật toàn bộ vĩnh viễn của đối tượng được bảo hiểm mới thuộc phạm vi bảo hiểm của hợp đồng bảo hiểm nhân thọ. Bên cạnh đó, mặc dù đối tượng của bảo hiểm nhân thọ là con người nhưng bảo hiểm nhân thọ không đảm bảo những chi phí y tế như trong các loại hình bảo hiểm tai nạn và sinh mạng cá nhân trong bảo hiểm phi nhân thọ.
- Bảo hiểm nhân thọ mang tính tiết kiệm. Đây là một trong những hình thức huy động vốn nhàn rỗi trong dân cư hết sức có hiệu quả; hình thức huy động dần dần, phù hợp với khả năng tích lũy của mọi đối tượng, từ những người có thu nhập thấp đến những người có thu nhập cao. Chính hình thức tổ chức đóng phí bảo hiểm tại nhà, có thể theo tháng, quý, 6 tháng hay một năm, có nhiều mức phí tùy theo sự lựa chọn và khả năng tài chính của người tham gia bảo hiểm đã tạo nên sự khác biệt, hình thành ý thức tiết kiệm trong dân cư đã đem lại thành công cho bảo hiểm nhân thọ (xem sự khác nhau giữa bảo hiểm nhân thọ và hình thức huy động vốn qua kênh ngân hàng mục 1.1.3.3 chương 1).
- Là loại hình bảo hiểm có thời hạn bảo hiểm dài hạn, nguồn phí bảo hiểm được sử dụng để đầu tư và người tham gia bảo hiểm được hưởng một phần lãi từ hoạt động đầu tư đó vì bảo hiểm nhân thọ mang tính tiết kiệm. Trong khi đó, bảo hiểm phi nhân thọ mang tính ngắn hạn, chỉ bồi thường khi có tai nạn, rủi ro xảy ra nên các doanh nghiệp bảo hiểm không được phép kinh doanh đồng thời bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm phi nhân thọ (khoản 2 Điều 60 Luật kinh doanh bảo hiểm).
- Xuất phát từ những đặc điểm riêng biệt của bảo hiểm nhân thọ với đối tượng bảo hiểm chỉ là con người, pháp luật đã quy định có tính chất ràng buộc, hạn chế có liên quan đến việc giao kết hợp đồng bảo hiểm nhân thọ. Có hai ràng buộc chính được thể hiện trong Luật kinh doanh bảo hiểm (2000), những ràng buộc vốn đều đã có mặt trong các văn bản pháp luật tương tự ở mọi quốc gia cho phép kinh doanh bảo hiểm nhân thọ.
Thứ nhất, ràng buộc về quyền lợi có thể được bảo hiểm. Khoản 9 Điều 3 Luật kinh doanh bảo hiểm (2000) định nghĩa: "Quyền lợi có thể được bảo hiểm là quyền sở hữu, quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền tài sản; quyền, nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng đối với đối tượng được bảo hiểm" [25]. Đây là một định nghĩa mang nặng tính pháp lý, phản ánh hình thức pháp lý của quan hệ
Có thể bạn quan tâm!
- Doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm nhân thọ theo pháp luật Việt Nam - 1
- Sự Khác Nhau Giữa Bảo Hiểm Nhân Thọ Và Các Hình Thức Đảm Bảo Khác
- Vai Trò Của Bảo Hiểm Nhân Thọ Trong Nền Kinh Tế Quốc Dân
- Hoạt Động Bảo Hiểm Phải Tổ Chức Kinh Doanh Theo Các Hình Thức Doanh Nghiệp Nhất Định
Xem toàn bộ 97 trang tài liệu này.
quyền lợi. Tài liệu của Viện Quản lý Bảo hiểm nhân thọ Hoa Kỳ (LOMA) định nghĩa khái niệm này thiên về yêu cầu của nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ là "khả năng người chủ hợp đồng và người thụ hưởng phải chịu những mất mát hoặc thiệt hại lớn nếu sự kiện được bảo hiểm xảy ra" [45, tr. 14]. Lý do của những quy định này xuất phát từ mục đích cơ bản của bảo hiểm là đền bù cho người bị thiệt hại khi một rủi ro xảy ra và như vậy, sự đền bù phải dành cho đúng đối tượng phải chịu thiệt thòi, mất mát thì mới thực sự có ý nghĩa và đạt được mục đích. Mặt khác, nếu không có yêu cầu về quyền lợi có thể được bảo hiểm, hiện tượng trục lợi bảo hiểm trên tài sản, tính mạng, sức khỏe của người khác, đi ngược lại đạo đức và pháp luật sẽ xảy ra phổ biến bởi bất cứ ai cũng có thể ký hợp đồng bảo hiểm đối với tài sản, tính mạng, sức khỏe của người khác và sau đó cố tình gây ra rủi ro để thu lợi bất chính từ tiền bồi thường.
Cụ thể hóa yêu cầu về quyền lợi có thể được bảo hiểm, khoản 2 Điều 31 Luật kinh doanh bảo hiểm (2000) chỉ cho phép bên mua bảo hiểm mua bảo hiểm cho những người sau đây:
- Bản thân bên mua bảo hiểm;
- Vợ, chồng, con, cha, mẹ của bên mua bảo hiểm;
- Anh, chị, em ruột; người có quan hệ nuôi dưỡng hoặc cấp dưỡng;
- Người khác, nếu bên mua bảo hiểm có quyền lợi có thể được bảo hiểm.
Đối với hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, quy định những đối tượng được mua bảo hiểm như trên đã trở thành thông lệ quốc tế xuất phát từ quan điểm xã hội cho rằng những người thân thiết, ruột thịt trong gia đình là những người phải chịu đựng mất mát nhiều nhất khi người thân gặp rủi ro. Mặt khác, có một số quan hệ cũng được chấp nhận là đảm bảo quyền lợi này như quan hệ giữa người cho vay và người đi vay (nếu người đi vay gặp rủi ro khi chưa trả hết nợ thì người cho vay phải chịu thiệt hại), quan hệ giữa người lao động
và người sử dụng lao động (nếu người lao động gặp rủi ro thì người sử dụng lao động bị mất nhân công, nói cách khác là mất chi phí tuyển dụng và đào tạo lao động khác thay thế, chi phí gián đoạn sản xuất…). Quy định này chỉ rõ rằng yêu cầu về quyền lợi có thể được bảo hiểm là yêu cầu bắt buộc ở thời điểm yêu cầu bảo hiểm. Pháp luật nhiều nước còn yêu cầu quyền lợi này hiện diện cả khi thanh toán quyền lợi bảo hiểm (Mỹ, Canađa…) [43]. Quy định này được các doanh nghiệp bảo hiểm tuân thủ triệt để, vì nó góp phần đáng kể bảo vệ doanh nghiệp trước rủi ro bị khách hàng lợi dụng và trục lợi.
Thứ hai, ràng buộc về giao kết hợp đồng bảo hiểm nhân thọ cho trường hợp chết. Quy định này cũng là một thông lệ đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm trên khắp thế giới nhằm bảo vệ tính mạng của đối tượng được bảo hiểm. Điều 38 Luật kinh doanh bảo hiểm (2000) quy định về ràng buộc này như sau:
- Khi bên mua bảo hiểm giao kết hợp đồng bảo hiểm con người cho trường hợp chết của người khác thì phải được người đó đồng ý bằng văn bản, trong đó ghi rõ số tiền bảo hiểm và người thụ hưởng. Mọi trường hợp thay đổi người thụ hưởng phải có sự đồng ý bằng văn bản của bên mua bảo hiểm.
- Không được giao kết hợp đồng bảo hiểm con người cho trường hợp chết của người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp cha mẹ, hay người giám hộ của người đó đồng ý bằng văn bản.
- Không được giao kết hợp đồng bảo hiểm con người cho trường hợp chết của người đang mắc bệnh tâm thần [25].
Quy định này nhấn mạnh đến yếu tố nhất trí của người được bảo hiểm (trong trường hợp người được bảo hiểm không có năng lực hành vi dân sự đầy đủ - như bị tâm thần hoặc dưới 18 tuổi - hợp đồng không thể được giao kết hoặc chỉ có thể được giao kết khi có sự đồng ý rõ ràng và hoàn toàn của cha, mẹ hoặc người giám hộ hợp pháp). Nội dung của sự nhất trí này bao hàm
hai yếu tố chính: nhất trí về việc giao kết hợp đồng bảo hiểm trên sinh mạng của mình và nhất trí về người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm trong trường hợp người được bảo hiểm không may qua đời. Sự nhất trí của người được bảo hiểm chính là một đảm bảo chắc chắn rằng, người được bảo hiểm biết rõ và chấp nhận sự tồn tại của hợp đồng bảo hiểm nhân thọ bảo hiểm cho mình và rằng, ai sẽ là người được nhận quyền lợi bảo hiểm khi mình chết. Đây chính là cách thức phòng tránh có hiệu quả đối với các trường hợp giao kết hợp đồng bảo hiểm nhằm trục lợi trên sinh mạng của người khác, đặc biệt là những người không hoặc chưa có khả năng nhận thức đầy đủ cũng như khả năng tự bảo vệ mình. Quy định này cũng góp phần làm trong sạch và lành mạnh hoạt động kinh doanh bảo hiểm nhân thọ, đảm bảo cho nó giữ đúng được giá trị và ý nghĩa nhân văn của bảo hiểm nhân thọ.
Trên đây là hai ràng buộc cơ bản mà pháp luật áp đặt đối với việc giao kết hợp đồng bảo hiểm nhân thọ. Những ràng buộc này có thể tìm thấy ở pháp luật về bảo hiểm của mọi quốc gia, là sản phẩm của một quá trình nghiên cứu và tích lũy kinh nghiệm kinh doanh trong lĩnh vực này trong hàng trăm năm của các công ty bảo hiểm. Những quy định này được các doanh nghiệp bảo hiểm ở các nước cũng như Việt Nam tuân thủ triệt để và tinh thần của nó không chỉ được tìm thấy trong điều khoản hợp đồng bảo hiểm của các doanh nghiệp mà còn trong mọi hoạt động tác nghiệp hàng ngày ở các doanh nghiệp.
Tóm lại, với những đặc điểm riêng, đã từ lâu, bảo hiểm nhân thọ giữ một vai trò vô cùng quan trọng trên thị trường bảo hiểm thế giới và hiện nay càng ngày càng khẳng định được vị trí quan trọng của mình trên thị trường bảo hiểm ở Việt Nam. Với các loại hình sản phẩm đa dạng, bảo hiểm nhân thọ đáp ứng được nhiều nhu cầu khác nhau của khách hàng. Với mỗi cá nhân, đó là nhu cầu thực hiện có hiệu quả các kế hoạch tài chính dài hạn, nhu cầu chuẩn bị chi phí hậu sự và dành dụm để lại cho con cháu, nhu cầu bổ sung nguồn tài chính khi già cả, mất khả năng lao động tạo ra thu nhập và các nhu cầu bảo đảm về tài chính khi gặp các rủi ro về sức khỏe. Với các cơ quan, tổ
chức, đó là nhu cầu bù đắp chi phí tuyển dụng và đào tạo lại nhân công trong trường hợp người lao động bị tử vong hoặc thương tật dẫn đến mất khả năng lao động, đặc biệt là những lao động có kiến thức và trình độ và nhu cầu có nguồn tài chính hỗ trợ người lao động cũng như gia đình của họ vượt qua khó khăn khi gặp phải rủi ro. Với ý nghĩa xã hội to lớn như vậy, bảo hiểm nhân thọ đang ngày càng được cả xã hội quan tâm.
1.1.2. Các loại hình bảo hiểm nhân thọ cơ bản
Đáp ứng những nhu cầu về bảo hiểm, bảo hiểm nhân thọ được thiết kế gồm năm loại hình bảo hiểm nhân thọ cá nhân cơ bản, trong mỗi loại hình lại bao gồm rất nhiều sản phẩm khác nhau, ngoài ra còn có các loại hình bảo hiểm nhóm và bảo hiểm bổ trợ.
1.1.2.1. Các loại hình bảo hiểm nhân thọ cá nhân
* Bảo hiểm sinh kỳ
Điều 3 Luật kinh doanh bảo hiểm 2000 định nghĩa: "Bảo hiểm sinh kỳ là nghiệp vụ bảo hiểm cho trường hợp người được bảo hiểm sống đến một thời hạn nhất định, theo đó doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng, nếu người được bảo hiểm vẫn sống đến thời hạn được thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm" [25].
Các đặc điểm của bảo hiểm sinh kỳ là:
- Chỉ bảo hiểm trong trường hợp người được bảo hiểm sống đến một thời hạn được quy định trong hợp đồng.
- Công ty bảo hiểm sẽ không phải trả tiền bảo hiểm, không hoàn phí bảo hiểm và hiệu lực bảo hiểm sẽ chấm dứt ngay nếu người được bảo hiểm chết trong thời hạn bảo hiểm.
Mục đích của loại hình bảo hiểm này giúp người tham gia bảo hiểm sống đến một mức tuổi nào đó sẽ nhận được tiền bảo hiểm để đáp ứng nhu cầu trong cuộc sống. Ví dụ như mua bảo hiểm sinh kỳ cho con tức là sẽ có
một khoản tiền để dành cho con dùng vào việc học tập và kết hôn sau này, hoặc là mua bảo hiểm sinh kỳ sống đến tuổi về hưu thì được lĩnh tiền bảo hiểm.
* Bảo hiểm tử kỳ
Loại bảo hiểm này bảo hiểm cho rủi ro chết xảy ra trong thời gian đã quy định trong hợp đồng. Nếu cái chết không xảy ra trong thời gian đó thì việc thanh toán không được thực hiện, chính vì vậy phí bảo hiểm luôn được giữ ở mức thấp nhất. Điều 3 Luật kinh doanh bảo hiểm 2000 định nghĩa: "Bảo hiểm tử kỳ là nghiệp vụ bảo hiểm cho trường hợp người được bảo hiểm chết trong một thời hạn nhất định, theo đó doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng, nếu người được bảo hiểm chết trong thời hạn được thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm" [25]. Tài liệu của Viện Quản lý bảo hiểm nhân thọ Hoa Kỳ định nghĩa bảo hiểm tử kỳ là nghiệp vụ bảo hiểm cung cấp quyền lợi bảo hiểm tử vong nếu người được bảo hiểm chết trong một thời hạn được xác định trước [45, tr. 31].
Các đặc điểm nổi bật của bảo hiểm tử kỳ là:
- Chỉ bảo hiểm rủi ro mà không có yếu tố tiết kiệm;
- Thời hạn bảo hiểm của hợp đồng được xác định rõ ngay khi giao kết hợp đồng;
- Công ty bảo hiểm có thể không phải trả tiền bảo hiểm (trong trường hợp người được bảo hiểm còn sống đến thời điểm đáo hạn hợp đồng).
Loại hình bảo hiểm này thường được thể hiện thành các sản phẩm phổ biến như: bảo hiểm sinh mạng có thời hạn, bảo hiểm sinh mạng có hoàn phí; bảo hiểm tử kỳ có số tiền bảo hiểm giảm dần, bảo hiểm tử kỳ có số tiền bảo hiểm tăng dần.
Mục đích của loại hình bảo hiểm này là cung cấp sự bảo vệ trước rủi ro trong một thời hạn xác định; đồng thời, hợp đồng bảo hiểm loại này còn có thể được sử dụng như một "tài sản thế chấp" trong quan hệ tín dụng.
* Bảo hiểm hỗn hợp
Điều 3 Luật kinh doanh bảo hiểm 2000 định nghĩa: "Bảo hiểm hỗn hợp là nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp sinh kỳ và bảo hiểm tử kỳ" [25], trong đó "bảo hiểm sinh kỳ là nghiệp vụ bảo hiểm cho trường hợp người được bảo hiểm sống đến một thời hạn nhất định, theo đó doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng, nếu người được bảo hiểm vẫn sống đến thời hạn được thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm". Tài liệu của Viện Quản lý bảo hiểm nhân thọ Hoa Kỳ định nghĩa bảo hiểm hỗn hợp là nghiệp vụ bảo hiểm, trong đó quyền lợi bảo hiểm được thanh toán khi người được bảo hiểm chết hoặc vào ngày đáo hạn hợp đồng nếu người được bảo hiểm vẫn còn sống vào ngày này [45, tr. 31].
Các đặc điểm nổi bật của bảo hiểm hỗn hợp là:
- Vừa bảo hiểm rủi ro và có tính tiết kiệm;
- Thời hạn bảo hiểm được xác định trước;
- Công ty bảo hiểm chắc chắn phải thanh toán quyền lợi cho khách hàng.
Loại hình bảo hiểm này thường được thể hiện thành các sản phẩm phổ biến như: bảo hiểm hỗn hợp có thời hạn, bảo hiểm hỗn hợp có số tiền bảo hiểm tăng dần, bảo hiểm hỗn hợp trả tiền định kỳ.
Mục đích của loại hình bảo hiểm này là kết hợp giữa việc đề phòng rủi ro và giúp khách hàng tích lũy dần dần để thực hiện các kế hoạch tài chính dài hạn.
* Bảo hiểm trọn đời
Đây là loại hình bảo hiểm mà số tiền bảo hiểm sẽ được thanh toán cho người được bảo hiểm khi chết. Đây là hợp đồng dài hạn, có yếu tố đầu tư và