Sự Khác Nhau Giữa Bảo Hiểm Nhân Thọ Và Các Hình Thức Đảm Bảo Khác

đến một lúc nào đó hợp đồng chắc chắn được thanh toán. Điều 3 Luật kinh doanh bảo hiểm 2000 định nghĩa: "Bảo hiểm trọn đời là nghiệp vụ bảo hiểm cho trường hợp người được bảo hiểm chết vào bất kỳ thời điểm nào trong suốt cuộc đời của người đó" [25]. Tài liệu của Viện Quản lý bảo hiểm nhân thọ Hoa Kỳ định nghĩa bảo hiểm trọn đời là nghiệp vụ bảo hiểm cung cấp sự bảo vệ cho suốt cuộc đời của người được bảo hiểm và có yếu tố tiết kiệm [45, tr. 32].

Các đặc điểm nổi bật của bảo hiểm trọn đời là:

- Vừa bảo hiểm rủi ro và có tính tiết kiệm;

- Thời hạn bảo hiểm không xác định được trước, thời hạn bảo hiểm chấm dứt khi người được bảo hiểm chết;

- Công ty bảo hiểm chắc chắn phải thanh toán quyền lợi cho khách hàng.

Loại hình bảo hiểm này thường được thể hiện thành các sản phẩm phổ biến như: bảo hiểm trọn đời biến đổi, bảo hiểm trọn đời phổ thông, bảo hiểm trọn đời chung, bảo hiểm người còn sống cuối cùng.

Mục đích của loại hình bảo hiểm này là bảo hiểm rủi ro kết hợp tiết kiệm. Sản phẩm này không chỉ giúp khách hàng trang trải các chi phí hậu sự mà còn góp phần làm tăng giá trị tài sản khách hàng để lại cho người thân khi qua đời.

* Niên kim nhân thọ (bảo hiểm trả tiền định kỳ)

Điều 3 Luật kinh doanh bảo hiểm 2000 định nghĩa: "Bảo hiểm trả tiền định kỳ là nghiệp vụ bảo hiểm cho trường hợp người được bảo hiểm sống đến một thời hạn nhất định, sau thời hạn đó doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm định kỳ cho người thụ hưởng theo thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm" [25].

Các đặc điểm nổi bật của niên kim nhân thọ là:

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 97 trang tài liệu này.

- Quyền lợi bảo hiểm được thanh toán thành nhiều lần theo định kỳ và phương thức nhất định;

- Thời hạn bảo hiểm thường không xác định trước, hợp đồng bảo hiểm chấm dứt khi người được bảo hiểm chết hoặc người được bảo hiểm đã nhận hết quyền lợi bảo hiểm thỏa thuận.

Doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm nhân thọ theo pháp luật Việt Nam - 3

- Công ty bảo hiểm chắc chắn phải trả tiền cho khách hàng.

Loại hình bảo hiểm này thường được thể hiện thành các sản phẩm phổ biến như: niên kim trả ngay, niên kim hoãn trả, niên kim biến đổi, niên kim thu nhập trọn đời trong thời hạn được đảm bảo.

Sản phẩm này chủ yếu được thiết kế nhằm mục đích an sinh xã hội, bảo hiểm hưu trí cho người cao tuổi. Đây chính là một hình thức bảo hiểm xã hội tự nguyện, cung cấp khoản "lương hưu" theo lựa chọn của chính người nhận.

1.1.2.2. Bảo hiểm nhóm

Loại hình bảo hiểm này có đặc điểm cơ bản khác với bảo hiểm cá nhân là thay vì bảo hiểm cho một cá nhân theo một hợp đồng, bảo hiểm nhóm bảo hiểm cho một nhóm người theo một hợp đồng. Loại hình này được thiết kế dưới hình thức một loạt sản phẩm tương tự như sản phẩm bảo hiểm cá nhân, nhưng bảo hiểm cho một nhóm người. Các bên trong hợp đồng bảo hiểm là công ty bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm, người được bảo hiểm không phải là một bên trong hợp đồng.

Ưu điểm của loại hình bảo hiểm nhóm là thủ tục tham gia đơn giản, phí bảo hiểm thấp, loại hình bảo hiểm này giúp góp phần gắn kết, khuyến khích, tăng phúc lợi cho người lao động (khách hàng chủ yếu của bảo hiểm nhóm là người lao động).

Tuy nhiên, loại hình bảo hiểm này cũng có một số hạn chế so với loại hình bảo hiểm cá nhân như sản phẩm không đa dạng phong phú như sản phẩm bảo hiểm cá nhân, ít người sử dụng lao động mua cho nhân viên, tập thể của

họ. Quyền lợi bảo hiểm của loại hình bảo hiểm này không nhiều (chỉ những quyền lợi cơ bản như chết, thương tật do tai nạn), số tiền bảo hiểm không lớn, thời hạn bảo hiểm thường ngắn (1 năm), phức tạp cho thủ tục và công tác quản lý hợp đồng khi số lượng thành viên của nhóm có sự xáo trộn như tăng hoặc giảm....

Việc phát triển loại hình bảo hiểm nhóm phụ thuộc vào chính sách, chế độ phúc lợi của mỗi tổ chức, bên cạnh đó, cần thiết kế sản phẩm bảo hiểm nhóm phù hợp hơn, hấp dẫn hơn để đáp ứng được yêu cầu của thị trường.

1.1.2.3. Các sản phẩm bảo hiểm bổ trợ

Những sản phẩm này rất đa dạng, trong đó nổi bật phải kể đến bảo hiểm chết và thương tật toàn bộ vĩnh viễn do tai nạn, bảo hiểm thương tật bộ phận vĩnh viễn do tai nạn, bảo hiểm chi phí phẫu thuật, bảo hiểm chi phí nằm viện, bảo hiểm bệnh hiểm nghèo, bảo hiểm từ bỏ thu phí... Các sản phẩm này giúp khách hàng bổ sung và mở rộng quyền lợi bảo hiểm khi tham gia bảo hiểm nhân thọ.

1.1.3. Sự khác nhau giữa bảo hiểm nhân thọ và các hình thức đảm bảo khác

1.1.3.1. Sự khác nhau giữa bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm phi nhân thọ

Theo quy định tại Luật kinh doanh bảo hiểm, Điều 7 chương I, nghiệp vụ bảo hiểm được phân thành 2 nhóm là Bảo hiểm nhân thọ và Bảo hiểm phi nhân thọ. Bảo hiểm phi nhân thọ là loại nghiệp vụ bảo hiểm tài sản, trách nhiệm dân sự và các nghiệp vụ bảo hiểm khác không thuộc bảo hiểm nhân thọ. Đặc điểm khác nhau cơ bản giữa bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm phi nhân thọ là bảo hiểm phi nhân thọ chỉ có một mục đích chống lại rủi ro thì bảo hiểm nhân thọ có thể giúp người được bảo hiểm vừa đạt được mục đích chống lại rủi ro vừa có mục đích tiết kiệm. Thời hạn của các hợp đồng bảo hiểm phi nhân thọ ngắn, thông thường là một năm, bên cạnh đó có những hợp

đồng bảo hiểm kéo dài chỉ vài tháng, thậm chí thời hạn bảo hiểm có thể chỉ là vài giờ (trong bảo hiểm tai nạn hành khách). Trong khi đó, thời hạn bảo hiểm của các hợp đồng nhân thọ thường dài hạn (từ 5 năm trở lên).

Trong bảo hiểm phi nhân thọ, có một số nghiệp vụ bắt buộc phải mua bảo hiểm đã được quy định trong luật pháp để giúp phát huy tối đa tác dụng của các nghiệp vụ này và nhằm đạt được mục đích bảo vệ lợi ích chung của cộng đồng, bên cạnh đó khi ký kết hợp đồng bảo hiểm, sẽ có một cam kết ràng buộc giữa doanh nghiệp bảo hiểm và bên mua bảo hiểm, bên mua bảo hiểm có nghĩa vụ theo đuổi đến cùng, trừ lý do rơi vào các tình huống phải chấm dứt hợp đồng theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, những quy định bắt buộc này không bao giờ áp dụng đối với bảo hiểm nhân thọ, trong bảo hiểm nhân thọ, bên mua bảo hiểm có quyền chấm dứt hợp đồng vào bất cứ thời điểm nào và không cần viện dẫn lý do.

Đối với bảo hiểm phi nhân thọ, người tham gia bảo hiểm chỉ có thể bảo hiểm cho hậu quả của các sự kiện được bảo hiểm chứ không bảo hiểm việc nó không xảy ra. Trái lại trong bảo hiểm nhân thọ, người tham gia bảo hiểm có thể bảo hiểm việc xảy ra biến cố tử vong hoặc không xảy ra sự cố tử vong hoặc đồng thời bảo hiểm cho cả hai sự kiện tử vong và không tử vong.

Tóm lại, bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm phi nhân thọ, mỗi loại hình bảo hiểm đều có những đặc trưng riêng có của mình, nhưng tựu trung lại cả hai loại hình này đều có tác dụng và vai trò rất to lớn, không thể thiếu được đối với mỗi quốc gia, nhất là với các quốc gia phát triển.

1.1.3.2. Sự khác nhau giữa Bảo hiểm nhân thọ và Bảo hiểm xã hội

Bảo hiểm xã hội và bảo hiểm nhân thọ (bảo hiểm thương mại) đều là chế độ bảo hiểm nên có những điểm chung về bảo hiểm. Nhưng vì là hai loại hình bảo hiểm khác nhau nên có sự khác nhau về nhiều mặt như sau:

Thứ nhất: Về mục đích, nguyên tắc.

Bảo hiểm xã hội là một phần của chế độ bảo trợ xã hội bắt buộc thực hiện theo pháp luật của nhà nước, nhằm mục đích đảm bảo đời sống cơ bản cho mọi người trong xã hội, giữ vững ổn định trong xã hội, người được bảo hiểm có quyền lợi được đảm bảo trọn đời. Quá trình hoạt động của bảo hiểm xã hội thể hiện rõ đặc điểm của quan hệ hành chính.

Bảo hiểm thương mại là loại hình do mọi người tự nguyện tham gia bảo hiểm, không có sự bắt buộc. Nguyên tắc cần phải tuân theo đó là người nào tham gia bảo hiểm thì người đó được hưởng quyền lợi bảo hiểm. Đây là hoạt động kinh doanh kiếm lời của doanh nghiệp bảo hiểm. Mọi quy tắc, trách nhiệm bảo hiểm đều phải thực hiện một cách chặt chẽ theo đúng quy định của hợp đồng bảo hiểm mà các bên đã thỏa thuận. Bảo hiểm thương mại có luật điều chỉnh riêng.

Thứ hai: Khác nhau về đối tượng và chức năng bảo hiểm.

Đối tượng của bảo hiểm xã hội là những người lao động trong xã hội. Chức năng chủ yếu của bảo hiểm xã hội là đảm bảo đời sống cơ bản cho người lao động khi ốm đau, già cả, bị thương, bị tàn phế, mất khả năng lao động... nhằm giữ vững quá trình tái sản xuất sức lao động xã hội. Ngoài ra, còn thực hiện việc nhà nước phân phối lại thu nhập xã hội bằng cách tập trung quỹ bảo hiểm xã hội và thực hiện việc trợ cấp bồi thường thiệt hại, thực hiện chức năng công bằng xã hội.

Đối tượng bảo hiểm thương mại thường không có quy định đặc biệt mà áp dụng đối với tất cả các tổ chức, công dân dựa vào nguyên tắc tự nguyện lựa chọn, tự nguyện tham gia bảo hiểm. Chức năng chủ yếu của bảo hiểm thương mại là bồi thường hoặc chi trả số tiền bảo hiểm cho người tham gia bảo hiểm khi họ gặp rủi ro hoặc khi đáo hạn hợp đồng như đã quy định trong hợp đồng bảo hiểm.

Việc trả tiền bảo hiểm xã hội xuất phát từ mục đích đảm bảo mức sống cơ bản của người lao động. Mức độ đảm bảo này được dựa trên mức tiêu dùng bình quân của xã hội, các yếu tố tăng giá cả hàng hóa... Đối với mức

đảm bảo của bảo hiểm thương mại không xét tới những yếu tố kể trên, hoàn toàn do người được bảo hiểm nộp phí bảo hiểm nhiều hay ít.

Thứ ba: Sự hình thành, sử dụng và quản lý quỹ bảo hiểm.

Quỹ bảo hiểm xã hội được hình thành từ các nguồn sau:

+ Người sử dụng lao động đóng bằng 15% so với tổng quỹ lương của những người tham gia bảo hiểm trong đơn vị, trong đó 10% là quỹ lương hưu, 5% là quỹ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động…

+ Người lao động đóng 5% tiền lương hàng tháng.

+ Nhà nước hỗ trợ thêm để thực hiện các chế độ bảo hiểm đối với người lao động.

+ Các nguồn khác…

Quỹ bảo hiểm thương mại:

Quỹ bảo hiểm thương mại hình thành trên cơ sở thu phí bảo hiểm của người tham gia bảo hiểm thể hiện dưới hợp đồng hoặc do luật định. Đây là quỹ bảo hiểm riêng biệt, độc lập với ngân sách nhà nước. Quỹ này không do cơ quan nhà nước quản lý tập trung thống nhất mà do chính các doanh nghiệp bảo hiểm quản lý và sử dụng theo Luật. Về mặt pháp lý doanh nghiệp bảo hiểm được phép thu phí bảo hiểm của các tổ chức, cá nhân tham gia bảo hiểm và dùng quỹ tập trung này để chi trả quyền lợi bảo hiểm và bù đắp cho các rủi ro bảo hiểm xảy ra. Nguồn quỹ này chỉ sử dụng vì các mục đích cho đối tượng tham gia, không sử dụng vào các mục đích khác. Nhà nước không được sử dụng quỹ này.

1.1.3.3. Sự khác nhau giữa bảo hiểm nhân thọ và hình thức huy động vốn qua kênh ngân hàng

Hoạt động bảo hiểm nhân thọ và hoạt động ngân hàng cùng có tính chất giúp người dân tiết kiệm tiền và được hưởng lãi suất từ những khoản tiền

tiết kiệm. Nhưng giữa hai loại hình tiết kiệm này có một sự khác biệt lớn, đó là hoạt động bảo hiểm nhân thọ còn có tính chất đảm bảo rủi ro cho người tham gia trong khi hoạt động ngân hàng không có.

Có thể thấy, tiết kiệm ngân hàng chỉ mang tính tiết kiệm đơn thuần trong khi đó bảo hiểm nhân thọ kết hợp cả tiết kiệm với bảo hiểm. Trong quá trình tham gia bảo hiểm nhân thọ (5, 10, 15 năm hoặc dài hơn), số phí đóng bảo hiểm không thay đổi trong suốt thời hạn bảo hiểm đồng thời người tham gia được đảm bảo về quyền lợi khi không may gặp rủi ro. Tính bảo hiểm thấy rõ nhất là trường hợp người được bảo hiểm tham gia bảo hiểm nhân thọ vừa nộp phí 1 tháng thì không may bị thương tật toàn bộ vĩnh viễn, theo cam kết người đó sẽ được miễn phí cho toàn bộ thời gian còn lại của thời hạn nộp phí. Số phí đã nộp rõ ràng nhỏ hơn rất nhiều so với quyền lợi người tham gia bảo hiểm sẽ được nhận. Còn nếu gửi tiết kiệm ngân hàng, khi bị thương tật toàn bộ vĩnh viễn, người đó chẳng được quyền lợi gì ngoài số lãi trên số tiền gửi.

Với hình thức gửi tiền tại ngân hàng, người gửi tiền phải tự đem tiền đến ngân hàng để gửi. Theo ví dụ dưới đây, trong 15 năm người gửi tiền phải đến ngân hàng 15 lần để gửi tiền, tuy nhiên nếu người đó chọn hình thức gửi tiền theo tháng (tương đương với hình thức nộp phí tháng khi tham gia bảo hiểm nhân thọ) thì người đó sẽ phải đến ngân hàng tổng số 15 x 12 = 180 lần, và nếu thời hạn này dài hơn thì số lần đến ngân hàng sẽ tăng nên gấp bội. Rõ ràng, việc đi gửi tiền như trên rất mất thời gian và dường như không thể thực hiện đều đặn được nếu thực hiện gửi tiền theo tháng. Thêm vào đó, người gửi tiền chỉ có thể gửi tiền với số tiền lớn nhất định; không thể hàng tháng mang mấy chục ngàn đi gửi ngân hàng.

Ngược lại, nếu tham gia bảo hiểm nhân thọ, người tham gia không phải đến công ty bảo hiểm để nộp phí mà hoàn toàn có thể nộp phí ở nhà, ở cơ quan hoặc bất kỳ nơi nào tiện lợi; người tham gia cũng có thể nộp phí ngay từ số tiền tiết kiệm hàng tháng là mấy chục ngàn đồng và số tiền này được đầu

tư ngay để tích tiểu thành đại. Người tham gia bảo hiểm được nhà bảo hiểm thường xuyên nhắc nhở để họ có thể thực hiện kế hoạch tiết kiệm một cách "có kỷ luật", đồng thời cũng có những cơ chế tạo điều kiện để khách hàng vượt qua khó khăn tài chính tạm thời như khi chưa có tiền nộp phí, người tham gia được gia hạn nộp phí trong vòng 60 ngày mà không phải trả lãi đồng thời mọi quyền lợi bảo hiểm vẫn được đảm bảo.

Bên cạnh đó, người tham gia bảo hiểm còn được cho vay phí tự động (thường với lãi suất ưu đãi) khi nợ phí vượt quá 60 ngày như trên mà chưa có tiền đóng phí tiếp (với điều kiện hợp đồng đã có giá trị giải ước và tổng các khoản nợ và lãi phát sinh không vượt quá giá trị giải ước của hợp đồng).

Thêm một quyền lợi nữa là trong thời gian tham gia bảo hiểm nếu không may gặp khó khăn về tài chính, người tham gia có thể yêu cầu giảm số tiền bảo hiểm, theo đó số tiền nộp mỗi kỳ cũng sẽ giảm đi hoặc được duy trì hợp đồng với số tiền bảo hiểm giảm, đến lúc đáo hạn vẫn có một khoản tiền tiết kiệm.

Các phân tích trên cho thấy khi tham gia bảo hiểm nhân thọ, người tham gia luôn được bảo đảm quyền lợi. Điều này thật dễ hiểu là vì, chỉ khi bảo đảm được quyền lợi cho người tham gia bảo hiểm, các công ty bảo hiểm nhân thọ mới tồn tại và phát triển được trong môi trường kinh doanh cạnh tranh.


1.2. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM NHÂN THỌ VIỆT NAM

Bảo hiểm nhân thọ xuất hiện tại Việt Nam từ năm 1996 trong điều kiện kinh tế - xã hội có nhiều thuận lợi. Vào thời điểm này, sau một thập kỷ đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đã có nhiều khởi sắc, đời sống người dân được cải thiện dẫn đến có dư thừa, người dân bắt đầu quan tâm đến việc thực hiện các kế hoạch đầu tư dài hạn. Trình độ dân trí được nâng cao cùng với sự phát triển đáng kể của khoa học công nghệ đã tạo những tiền đề thuận lợi cho sự

Xem tất cả 97 trang.

Ngày đăng: 16/11/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí