KHOA LUẬT
NGUYỄN THU HIỀN
DOANH NGHIỆP KINH DOANH BẢO HIỂM NHÂN THỌ
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số : 60 38 50
Có thể bạn quan tâm!
- Doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm nhân thọ theo pháp luật Việt Nam - 2
- Sự Khác Nhau Giữa Bảo Hiểm Nhân Thọ Và Các Hình Thức Đảm Bảo Khác
- Vai Trò Của Bảo Hiểm Nhân Thọ Trong Nền Kinh Tế Quốc Dân
Xem toàn bộ 97 trang tài liệu này.
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Am Hiểu
HÀ NỘI - 2006
MỤC LỤC CỦA LUẬN VĂN
Trang
mở đầu 1
Chương 1: những vấn đề chung về bảo hiểm nhân thọ 5
1.1. Khái luận về bảo hiểm nhân thọ 5
1.2. Quá trình hình thành và phát triển của thị trường bảo hiểm 22 nhân thọ Việt Nam
1.3. Vai trò của bảo hiểm nhân thọ trong nền kinh tế quốc dân 27
Chương 2: pháp luật về doanh nghiệp kinh doanh bảo 31
hiểm nhân thọ
2.1. Hoạt động bảo hiểm phải tổ chức kinh doanh theo các 31 hình thức doanh nghiệp nhất định
2.2. Bảo hiểm nhân thọ là loại hình kinh doanh có điều kiện 37
2.3. Tài chính doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ 44
2.4. Trung gian bảo hiểm nhân thọ 50
2.5. Chuyển giao hợp đồng bảo hiểm nhân thọ 54
Chương 3: một số nhận xét chung và kiến nghị 57
3.1. Một số nhận xét về pháp luật đối với doanh nghiệp kinh 57 doanh bảo hiểm nhân thọ
3.2. Hướng hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp kinh doanh 64 bảo hiểm nhân thọ
Kết luận 75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 78
1 2
MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của việc nghiên cứu đề tài
Từ tháng 8 năm 1996, doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ đầu tiên của Việt Nam đã đi vào hoạt động, so với sự xuất hiện của doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ (cách đây hơn 40 năm) thì đó là khoảng thời gian không dài nhưng bảo hiểm nhân thọ đã có những bước phát triển vượt bậc, đáng ghi nhận.
Đặc trưng của hoạt động bảo hiểm nhân thọ là vừa mang tính chất tiết kiệm vừa mang tính chất phòng ngừa rủi ro. Với sự phát triển ổn định của nền kinh tế, thu nhập của người dân ngày càng tăng thì hoạt động này càng có điều kiện phát triển và trở thành một trong những kênh huy động vốn quan trọng đầu tư trở lại cho nền kinh tế. Không chỉ là kênh huy động vốn nhàn rỗi, các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ đã thu hút, tạo việc làm mới cho trên
100.000 lao động có thu nhập ổn định (gồm cán bộ nhân viên và đại lý), hàng loạt sản phẩm bảo hiểm nhân thọ và các chương trình tài chính rất đa dạng đã được các công ty bảo hiểm nhân thọ cung cấp cho thị trường, đáp ứng được nhiều nhu cầu khác nhau của khách hàng. Ngoài ra, các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ còn chi nhiều tỷ đồng cho hoạt động từ thiện, tài trợ cho các hoạt động văn hóa, thể thao, khuyến học...
Để phát triển kinh doanh bảo hiểm nhân thọ, ngay từ khi ban hành Nghị định 100/CP ngày 18/12/1993, Nhà nước ta đã xác lập tính đa dạng của các hình thức doanh nghiệp bảo hiểm bằng việc có những quy định làm tiền đề cho sự ra đời của các công ty bảo hiểm nhân thọ sau này. Trải qua hơn 10 năm hoạt động, bảo hiểm nhân thọ Việt Nam đã mang lại những lợi ích rất to lớn cho sự phát triển nền kinh tế xã hội và lợi ích của người tham gia bảo hiểm, là công cụ thu hút nguồn vốn cho đầu tư phát triển nền kinh tế. Bên cạnh đó, cũng giống như các tổ chức trung gian tài chính khác, các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm nhân thọ luôn phải đảm bảo sự vững chắc
về tài chính, tạo niềm tin cho hàng triệu khách hàng tham gia. Việt Nam đang trong quá trình hội nhập, đàm phán để gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Quá trình này tất yếu buộc nước ta phải mở rộng cửa thị trường để có thêm các công ty bảo hiểm nước ngoài vào Việt Nam. Vì vậy, hoạt động kinh doanh bảo hiểm của các công ty bảo hiểm nhân thọ cần phải được kiểm soát hết sức chặt chẽ và phải được điều chỉnh bằng luật pháp, để hoạt động này phát triển lành mạnh phục vụ cho công cuộc phát triển và xây dựng đất nước.
2. Tình hình nghiên cứu
Ở các nước có nền kinh tế phát triển, bảo hiểm nhân thọ đã ra đời và phát triển hàng trăm năm nay. Những lợi ích về mặt xã hội mà bảo hiểm nhân thọ mang lại đã tạo cho ngành kinh doanh này có một chỗ đứng rất vững vàng trong đời sống kinh tế xã hội. Vị thế của bảo hiểm nhân thọ ngày càng được thể hiện một cách rõ nét ở các quốc gia có nền kinh tế phát triển trên thế giới.
Ở Việt Nam, hoạt động bảo hiểm nhân thọ vẫn còn là mới mẻ, đã có một số công trình nghiên cứu về mặt kỹ thuật bảo hiểm, pháp luật về kinh doanh bảo hiểm nhưng chủ yếu đi sâu vào lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện, hệ thống về pháp luật kinh doanh bảo hiểm nhân thọ, đặc biệt là về doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ.
Trước đây, cũng đã có một số luận văn thạc sĩ đề cập đến những vấn đề liên quan đến pháp luật về kinh doanh bảo hiểm như:
+ Nguyễn Anh Tú: Một số vấn đề pháp lý về hợp đồng bảo hiểm, Luận văn Thạc sĩ Luật học, 2001.
+ Thái Văn Cách: Thực trạng pháp luật về kinh doanh bảo hiểm, phương hướng hoàn thiện, Luận văn Thạc sĩ Luật học, 2001.
+ Vương Việt Đức, Hợp đồng bảo hiểm tài sản, Luận văn Thạc sĩ Luật học, 2003.
Tuy nhiên, các công trình trên chủ yếu tập trung nghiên cứu các quy định pháp luật về kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ, mà chưa nghiên cứu cụ thể những quy định pháp luật về kinh doanh bảo hiểm nhân thọ, về doanh nghiệp bảo hiểm kinh doanh bảo hiểm nhân thọ, một loại hình kinh doanh có thể nói là mới ở thị trường Việt Nam nhưng đóng vai trò rất quan trọng trong đời sống. Chính vì vậy, tác giả đã chọn đề tài "Doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm nhân thọ theo pháp luật Việt Nam" làm đề tài Luận văn Thạc sĩ luật học.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của luận văn
Trên thế giới, ở những nước phát triển, hoạt động bảo hiểm nhân thọ đã có lịch sử hàng trăm năm và trở nên vô cùng quen thuộc với đông đảo người dân. Trong khi đó, ở Việt Nam, hoạt động bảo hiểm nhân thọ còn rất mới mẻ. Quá trình tìm hiểu và xây dựng nghiệp vụ chủ yếu theo hướng vừa làm vừa học, tham khảo tài liệu của nước ngoài. Hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động này thời kỳ đầu còn thiếu và chưa đồng bộ, qua một thời gian hoạt động cùng với trải nghiệm thực tế, Nhà nước ta đã rất nỗ lực trong việc hoàn thiện và ban hành mới các văn bản pháp luật nhằm tạo cơ sở pháp lý đầy đủ giúp các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ có được môi trường phát triển thuận lợi.
Tuy nhiên, trong quá trình vận dụng, vẫn tồn tại một số quy định pháp luật còn bất cập, gây khó khăn cho doanh nghiệp bảo hiểm. Do đó, mục tiêu đặt ra cho quá trình nghiên cứu luận văn là xem xét một cách tổng quát, toàn diện các văn bản pháp luật về doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm nhân thọ, đối chiếu với thực tiễn hoạt động, kết quả hoạt động của các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam. Từ đó đề ra hướng bổ sung và hoàn thiện các quy định pháp luật về lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm nhân thọ cũng như các quy định pháp luật về doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ nhằm tạo ra một hành lang pháp lý rõ ràng, phù hợp hơn cho các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm nhân thọ tiến hành hoạt động kinh doanh tại Việt Nam, giúp khuyến khích, thu hút ngày càng nhiều các tầng lớp dân cư tham gia bảo hiểm, góp phần đảm bảo an sinh xã hội, thúc đẩy công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
4. Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên các quan điểm của Đảng và Nhà nước về chỉ đạo hoạt động bảo hiểm, để làm rõ các vấn đề cần nghiên cứu, bên cạnh việc phân tích các văn bản pháp luật áp dụng vào thực tiễn kinh doanh, luận văn sẽ nhìn nhận vấn đề theo quan điểm duy vật, biện chứng, áp dụng phương pháp lịch sử, lôgic trên cơ sở nghiên cứu, phân tích các tài liệu pháp lý liên quan, kết hợp so sánh, đối chiếu, tổng hợp với thực tiễn để rút ra kết luận.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn những đóng góp của luận văn
Hoạt động kinh doanh bảo hiểm nhân thọ còn hết sức mới mẻ, vì vậy kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần vào việc nghiên cứu hoàn thiện các quy định pháp luật điều chỉnh tổ chức và hoạt động kinh doanh bảo hiểm nhân thọ, đồng thời chỉ ra những điểm không phù hợp với thực tiễn kinh doanh cần bổ sung, góp phần tạo ra môi trường pháp lý chuẩn mực và lành mạnh hơn cho các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm nhân thọ, thúc đẩy hoạt động bảo hiểm nhân thọ ngày càng phát triển phục vụ đời sống kinh tế, xã hội, nhất là trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam hiện nay.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về bảo hiểm nhân thọ.
Chương 2: Pháp luật về doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm nhân thọ.
Chương 3: Một số nhận xét chung và kiến nghị.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BẢO HIỂM NHÂN THỌ
1.1. KHÁI LUẬN VỀ BẢO HIỂM NHÂN THỌ
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của bảo hiểm nhân thọ
Trên thế giới, bảo hiểm nhân thọ đã có từ rất lâu, vào năm 1762, Công ty bảo hiểm nhân thọ đầu tiên trên thế giới được thành lập ở nước Anh, tên là Equitable. Sau đó đến Pháp, là nước thứ hai cho phép bảo hiểm nhân thọ được hoạt động. Vào năm 1787 công ty bảo hiểm nhân thọ đầu tiên tại Pháp được thành lập mang tên là Công ty bảo hiểm nhân thọ Hoàng gia, sau đó một thời gian ở các nước Châu Âu khác cũng dần dần xuất hiện bảo hiểm nhân thọ. Ở Châu Á, công ty bảo hiểm nhân thọ lần đầu tiên được ra đời ở Nhật Bản, đó là công ty bảo hiểm nhân thọ Meiji đã ra đời và đi vào hoạt động năm 1868.
Theo thời gian, bảo hiểm nhân thọ phát triển và trở thành một ngành dịch vụ tài chính, với nhiều loại hình bảo hiểm khác nhau mà tiện ích cơ bản của nó là mang tính tiết kiệm và trợ giúp khi sự kiện bảo hiểm xảy ra đối với người mua bảo hiểm.
Xét về khía cạnh vật chất, cuộc sống của con người là vô giá và không thể có một tổ chức nào có thể cung cấp một giá trị tương đương với một sinh mạng con người, vì lý do đó bảo hiểm nhân thọ là một thỏa thuận dựa trên một số tiền cụ thể chứ không mang tính chất bồi thường như bảo hiểm tài sản khác.
Khoản 12 Điều 3 Luật kinh doanh bảo hiểm (2000) định nghĩa: "Bảo hiểm nhân thọ là loại nghiệp vụ bảo hiểm cho trường hợp người được bảo hiểm sống hoặc chết" [25].
Từ điển thuật ngữ kinh doanh bảo hiểm định nghĩa bảo hiểm nhân thọ là sự bảo vệ trường hợp tử vong của một người bằng hình thức trả tiền cho người thụ hưởng - thường là thành viên của gia đình, doanh nghiệp hoặc tổ chức. Bằng cách đổi một loạt các khoản phí bảo hiểm hoặc thanh toán phí bảo hiểm một lần khi người được bảo hiểm chết, số tiền bảo hiểm (và bất kỳ số tiền bảo hiểm bổ sung nào được kèm theo đơn bảo hiểm) trừ đi khoản vay chưa trả theo hợp đồng bảo hiểm và khoản lãi cho vay, sẽ được trả cho người thụ hưởng. Những khoản trợ cấp trả khi còn sống cho người được bảo hiểm dưới hình thức giá trị giải ước hoặc các khoản trợ cấp thu nhập [18, tr. 329- 330].
Tài liệu của Viện Quản lý bảo hiểm nhân thọ Hoa Kỳ (LOMA) cũng nêu định nghĩa bảo hiểm nhân thọ như một loại hình bảo hiểm trả tiền khi phát sinh cái chết của người được bảo hiểm. Trên phương diện pháp lý, bảo hiểm nhân thọ là một thể loại bảo hiểm, trong đó để nhận được phí bảo hiểm của người tham gia bảo hiểm thông qua một hợp đồng, nhà bảo hiểm cam kết sẽ trả cho một hoặc nhiều người thụ hưởng bảo hiểm một số tiền nhất định hoặc những khoản trợ cấp nhất định trong trường hợp người được bảo hiểm bị tử vong hoặc người được bảo hiểm sống đến một thời điểm đã được chỉ rõ trong hợp đồng. Trên phương diện kỹ thuật, bảo hiểm nhân thọ là một nghiệp vụ bao hàm những cam kết mà việc thực hiện những cam kết này phụ thuộc vào tuổi thọ của con người [45, tr. 31].
Những định nghĩa trên tuy được trình bày khác nhau, nhưng tựu chung lại đều thể hiện những đặc trưng nổi bật của bảo hiểm nhân thọ, đó là:
- Bảo hiểm nhân thọ là một nghiệp vụ bảo hiểm thương mại, hay nói cách khác là loại hình kinh doanh thu lợi nhuận (phân biệt với các chế độ bảo hiểm xã hội, bảo trợ xã hội của Nhà nước).
- Bảo hiểm nhân thọ có tính đa mục đích, có thể được sử dụng để áp ứng nhiều mục đích khác nhau tùy theo nhu cầu của khách hàng. Do vậy, sản