121
phát triển kinh tế xã hội do Đảng và Nhà Nước để thực hiện. Mức độ huy động GDP vào ngân sách do quốc hội đã thông qua trong chiến lược phát triển kinh tế của đất nước sẽ là căn cứ quan trọng khi điều chỉnh chính sách thuế nói chung và thuế thu nhập nói riêng. Từ đó, có sự cân đối giữa các ngành, các lĩnh vực cần thu và khu vực hay ngành ưu tiên dưỡng nguồn thu. Vì vậy, tổng thu thuế thu nhập gồm loại thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân nhưng cần xác định rõ đối tượng thu thuế và lộ trình thu thuế để làm căn cứ điều chỉnh chính sách thuế theo từng giai đoạn nhất định. Chính sách thuế thu nhập hiệu quả ngoài việc xác định số thuế phải thu cần phải có lộ trình và bước đi thích hợp cho cả giai đoạn dài hạn. Đặc điểm quan trọng nhất của thuế thu nhập không phải là số thu nhiều hay ít mà đòi hỏi phải công bằng và minh bạch. Khi các nhóm ngành hay cá nhân bị gánh nặng thuế trong khi đó các nhóm khác hưởng lợi là điều gây bức xúc lớn nhất khi điều chỉnh chính sách thuế. Luật thuế thu nhập đã được ban hành nhưng muốn đi vào cuộc sống cần phải có điều chỉnh nên khi điều chỉnh phải hợp lý mới đảm bảo hiệu quả của luật thuế thu nhập. Nhiều ngành và lĩnh vực bị bỏ sót thì Nhà nước thất thu thuế nhưng dồn gánh nặng thuế thu nhập vào một số ít ngành và lĩnh vực cũng tạo ra sự méo mó chính sách thuế và gây những biến động xã hội lớn. Thuế thu nhập về dài hạn sẽ chiếm tỷ trọng lớn trong các khoản thu của Ngân sách nên đòi hỏi phải vận dụng các mô hình cân đối tổng thể trước khi xác định đối tượng, lĩnh vực ngành hay cá nhân cần thu thuế, giãn thuế, miễn giảm thuế thu nhập nhằm đảm bảo sự công bằng, minh bạch và hiệu quả chính sách thuế.
3.3.3. Nhóm giải pháp về quy trình điều chỉnh
Các chính sách, pháp luật về thuế thường có diện ảnh hưởng rộng, tác động đến nhiều thành phần, nhiều lĩnh vực trong xã hội. Do đó, khi thực hiện những nội dung sửa đổi lớn về chính sách, pháp luật thuế, cần có những nghiên cứu, đánh giá tác động của những sửa đổi này đến đời sống xã hội, mục tiêu phát triển kinh tế của đất nước. Một trong những cách thức đánh giá tác động thường được sử dụng là tổ chức thực hiện thí điểm trong 1 phạm vi hẹp NNT, địa bàn. Trên cơ sở các kết quả thực tế triển khai những nội dung sửa đổi với các đối tượng thí điểm, cơ quan thuế có thể đưa ra các đánh giá tác động cũng như đề xuất những nội dung sửa đổi, cách thức triển khai cho phù hợp, hiệu quả trong thực tế.
122
Kinh nghiệm triển khai Luật thuế sử dụng đất phi nông nghiệp (SDĐPNN) số 48/2010/QH12 được ban hành ngày 17/06/2010 thay thế cho các Pháp lệnh về thuế nhà đất trước đây là một trong những kinh nghiệm tốt trong việc thực hiện thí điểm áp dụng trước khi đưa các quy định mới vào cuộc sống. Trong quá trình xây dựng dự thảo nghị định, thông tư hướng dẫn, để có cơ sở về kinh nghiệm thực tế triển khai, Tổng cục thuế đã thực hiện thí điểm áp dụng chính sách thuế sử dụng đất phi nông nghiệp tại 3 địa phương là: Hà Nội, Cần Thơ và Bắc Ninh. Đây có thể coi là một tiền lệ và kinh nghiệm rất hữu ích cho Tổng cục thuế và Bộ Tài chính trong việc xây dựng và đưa ra áp dụng các chính sách mới về thuế nói chung và các sửa đổi về chính sách thuế thu nhập nói riêng.
Qua thời gian triển khai thí điểm từ 18/4/2011 – 25/5/2011, Tổng cục thuế đã tổng kết, đánh giá và đưa ra những đề xuất cụ thể về sửa đổi chính sách trong dự thảo thông tư, xây dựng cơ sở dữ liệu, tổ chức thực hiện thí điểm, phối hợp với các cơ quan liên quan trong tổ chức quản lý thu thuế,…
Từ kinh nghiệm và những kết quả triển khai thí điểm đối với sắc thuế này, khi triển khai những sửa đổi về chính sách đối với thuế thu nhập cần nghiên cứu những nội dung sau:
Về chọn đối tượng thực hiện thí điểm: Nên chọn mẫu là các doanh nghiệp mang tính đại diện cho các loại hình, quy mô, vị trí địa lý để đảm bảo tính khách quan, chính xác của việc nghiên cứu. Bên cạnh đó cũng nên thực hiện thí điểm tại các doanh nghiệp có lịch sử tuân thủ pháp luật thuế và có tổ chức bộ máy kế toán tương đối tốt để có thể giảm bớt các vấn đề vướng mắc, sai sót không liên quan đến chính sách và quản lý. Đối với các địa phương lớn, có hệ thống đại lý thuế và các công ty tư vấn, kiểm toán phát triển thì nên có cơ chế phối hợp và đưa các đối tượng này vào diện thí điểm vì họ có trình độ hiểu biết về pháp luật nói chung và pháp luật thuế nói riêng khá sâu sắc. Mặt khác, với các đại lý thuế và công ty tư vấn thuế, kiểm toán thì khách hàng rất đa dạng về loại hình và ngành nghề kinh doanh nên diện tiếp xúc của họ khá rộng. Qua việc trao đổi, thực hiện thí điểm chính sách thuế mới tại các doanh nghiệp này, cơ quan thuế có thể tận dụng kiến thức, kinh nghiệm của họ để xây dựng chính sách thuế hoặc đưa ra những điểm sửa đổi, bổ sung một cách hiệu quả, phù hợp với tình hình thực tế.
123
Có thể bạn quan tâm!
- Mục Tiêu Và Quan Điểm Điều Chỉnh Thuế Thu Nhập Trong Điều Kiện Việt Nam Là Thành Viên Của Wto Đến Năm 2020
- Điều Chỉnh Về Chi Phí Được Trừ Và Các Khoản Giảm Trừ
- Số Lượng Doanh Nghiệp Khảo Sát Phân Loại Theo Quy Mô
- Các Điều Kiện Thực Hiện Các Giải Pháp Điều Chỉnh Thuế Thu Nhập Trong Điều Kiện Việt Nam Là Thành Viên Wto
- Điều chỉnh thuế thu nhập của Việt Nam trong điều kiện Việt Nam là thành viên WTO - 19
- Cơ Cấu Tổ Chức Của Tổ Chức Thương Mại Thế Giới
Xem toàn bộ 184 trang tài liệu này.
Về công tác tổ chức thực hiện thí điểm: Cần xây dựng được kế hoạch thí điểm chi tiết, cụ thể về thời gian, nội dung công việc và phân công và phối hợp giữa các các cơ quan thực hiện. Điều này rất quan trọng và có tính quyết định với kết quả thí điểm vì khi triển khai áp dụng một chính sách mới có tầm ảnh hưởng lớn đến tình hình tài chính của NNT như những sửa đổi về thuế thu nhập nếu không được tổ chức tốt dễ gây phản ứng tiêu cực từ phía NNT dẫn đến những kết quả sai lệch và không phản ánh khách quan thực tế. Một trong số những kinh nghiệm cần được nghiêm túc tiếp thu từ chương trình triển khai thí điểm áp dụng thuế SDĐPNN tại 3 địa phương trong năm 2011 là công tác tuyên truyền, hướng dẫn về thuế cho đối tượng thực hiện thí điểm. Do công tác hướng dẫn, cung cấp thông tin chưa được triển khai cụ thể đến từng người dân trong việc kê khai thuế nên hầu hết các hộ dân không thể tự khai đầy đủ chỉ tiêu trên tờ khai. Họ chỉ có thể khai các chỉ tiêu như: Tên chủ hộ, số CMND, địa chỉ, tổng diện tích đất,… còn lại các chỉ tiêu như: hạn mức đất, vị trí, thuế suất,… thì các hộ dân không có thông tin và hiểu biết đầy đủ để kê khai. Điều này gây rất nhiều khó khăn và tốn thời gian, nhân lực của cơ quan thuế. Khi tiếp nhận tờ khai, cán bộ tiếp nhận phải giải thích, hướng dẫn cho người dân khai lại rồi mới có thể nhập liệu. Mặc dù vậy, tỷ lệ tờ khai không sử dụng được vẫn còn rất cao tại cả 3 địa phương như thống kê tại phụ lục 5.
Do đó, trong lộ trình sửa đổi thuế thu nhập doanh nghiệp, cần nghiên cứu lựa chon một số nội dung sửa đổi đê áp dụng thí điểm. Ví dụ, cần nghiên cứu chọn một số doanh nghiệp lớn thuộc các tập đoàn đa quốc gia, có giao dịch quan hệ liên kết để thực hiên thí điểm phương pháp thỏa thuận giá trước (APA). Trước mắt có thể kiến nghị chọn Công ty Sam sung Việt Nam và Intel Viêt Nam. Đây là các công ty thuộc các tập đoàn lớn của nước ngoài đầu tư tại Việt Nam. Các công ty này nhập nguyên liệu từ công ty mẹ và xuất sản phẩm, bán thành phẩm cho công ty mẹ nên việc xác định giá thị trường trong giao dịch liên kết là rất khó khăn, do đó đòi hỏi cần áp dụng phương pháp thỏa thuận giá trước. Mặt khác, các doanh nghiệp này đã áp dụng phương pháp này tại một số nước, do đó sẽ là cơ sở để Việt Nam tham khảo khi đàm phán, từ đó rút kinh nghiệm để xây dựng chinh sách và áp dụng đối với các doanh nghiệp khác.
124
3.3.4. Nhóm giải pháp bổ trợ
3.3.4.1. Đồng bộ hóa cơ chế quản lý thuế và cơ chế chính sách liên quan khác
Về cơ chế quản lý thuế: Triển khai áp dụng cơ chế thỏa thuận xác định giá trước để điều chỉnh cơ chế quản lý thuế chống chuyển giá.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường tự do, các doanh nghiệp được tự do di chuyển nguồn vốn, nhân lực và khoa học công nghệ để đầu tư vào các lĩnh vực, địa bàn có lợi nhất cho họ. Từ đó, các doanh nghiệp hình thành nên hệ thống các cơ sở, chi nhánh phụ thuộc tại cùng một quốc gia hoặc tại nhiều quốc gia. Việc thực hiện các giao dịch giữa các bên có quan hệ liên kết (giữa các bộ phận trong cùng hệ thống) được coi như một phần không thể tách rời trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của họ.
Chính từ những giao dịch này, một số doanh nghiệp đã lợi dụng để giảm tối đa chi phí nộp thuế của họ bằng hoạt động chuyển giá khi thực hiện giao dịch với các bên liên kết. Tại Việt Nam, hoạt động chuyển giá và khai lỗ triền miên để tránh nộp thuế TNDN đã và đang diễn ra tại một số doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Cơ quan thuế đã xác định nhiệm vụ chống chuyển giá là một trong những nhiệm vụ quan trọng của toàn ngành để đảm bảo tính công bằng trong công tác quản lý thuế và chống thất thu về thuế.
Hoạt động chuyển giá, khai lỗ tại các doanh nghiệp tại Việt Nam xuất phát từ các nguyên nhân chủ yếu sau:
Thứ nhất, vì mục tiêu lợi nhuận, các công ty đa quốc gia có thể so sánh mức thuế phải nộp giữa các quốc gia có chi nhánh hoạt động và tìm cách chuyển lợi nhuận (thông qua chuyển giá) đến nơi có thuế suất thấp để giảm tiền thuế.
Thứ hai, trong quá trình xử lý kết quả thanh tra, ngành Thuế còn gặp nhiều vướng mắc do thiếu thông tin, cơ sở pháp lý, căn cứ để áp dụng ấn định thuế.
Thứ ba, về chính sách thuế TNDN, trước năm 2009, có một số doanh nghiệp lợi dụng chính sách ưu đãi về miễn, giảm thuế TNDN của Nhà nước để kéo dài thời gian được hưởng ưu đãi. Theo đó, khi các doanh nghiệp chưa có thu nhập chịu thuế (phát sinh lỗ) thì các quy định về thời gian miễn giảm thuế vẫn được giữ nguyên cho đến khi có thu nhập chịu thuế (phát sinh lãi). Tuy nhiên, năm 2009 Tổng cục thuế đã tham mưu cho Bộ Tài chính trình Chính phủ, Quốc hội sửa đổi bổ sung Luật
125
thuế TNDN, theo đó, nếu doanh nghiệp không có thu nhập chịu thuế trong 3 năm đầu kể từ năm phát sinh doanh thu thì thời gian ưu đãi miễn thuế, giảm thuế được tính từ năm thứ tư không kể doanh nghiệp phát sinh lãi hay không. Đến nay, Tổng cục thuế vẫn tiếp tục kiến nghị sửa đổi nội dung này nhằm tạo cơ chế bình đẳng cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước.
Thứ tư, sự phối kết hợp đồng bộ giữa cơ quan thuế với các ngành chức năng còn hạn chế. Nhiều trường hợp mặc dù cơ quan thuế đã phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật thuế, nhưng việc điều tra xác minh làm căn cứ pháp lý để xử lý gặp nhiều khó khăn (do phạm vi xác minh rộng, liên quan đến nhiều ngành).
Từ những vấn đề này, Tổng cục thuế hiện đang nghiên cứu phương án áp dụng cơ chế thỏa thuận xác định giá trước (APA) để quản lý hoạt động chuyển giá tại Việt Nam. Hiện nay có một doanh nghiệp đang kiến nghị được áp dụng là Samsung Electronics Vietnam (SEV). Nếu được áp dụng thí điểm thì đây là cơ sở để cơ quan thuế nghiên cứu, đề xuất ban hành các văn bản quy phạm pháp luật phù hợp để triển khai đối với các doanh nghiệp có nhiều hoạt động giao dịch với các bên có quan hệ liên kết.
Có thể hiểu APA là một dạng dạng thoả thuận trước bằng văn bản, ràng buộc về nghĩa vụ thuế giữa cơ quan thuế (của một hoặc nhiều nước) và người nộp thuế về phương pháp xác định giá tính thuế được thiết lập trước khi diễn ra giao dịch giữa các bên có quan hệ liên kết (thường là giữa Công ty con của một nước và công ty mẹ của nước ngoài) và thoả thuận này sẽ được áp dụng cho một khoảng thời gian nhất định (3-5 năm). Theo đó, các yếu tố để xác định giá chuyển nhượng (để tính thuế) như phương pháp tính giá, các yếu tố so sánh, điều chỉnh hay các giả định có liên quan đến mức thay đổi về giá trong tương lai được thỏa thuận trước và sẽ có hiệu lực áp dụng khi các giao dịch liên kết diễn ra (theo đúng các điều kiện đã mô tả) trong một thời kỳ nhất định.
APA thường được đề xuất bởi người nộp thuế. Bằng việc cung cấp thông tin thực tế và kinh tế có liên quan cho cơ quan thuế và qua quá trình đàm phán giữa cơ quan thuế và người nộp thuế để đi tới một thỏa thuận về các tiêu chí hoặc phương pháp xác định giá chuyển giao cho các giao dịch chính áp dụng cho một thời hạn nhất định được thoả thuận trong APA.
126
APA có 2 dạng chính:
+ Một là, APA đơn phương: Đối tượng tham gia là doanh nghiệp và cơ quan thuế của một nước. Dạng APA này thường áp dụng khi nước ban hành APA không có iệp định tránh đánh thuế hai lần với nước nơi công ty mẹ cư trú. Nếu áp dụng đơn phương, APA thường có phạm vi hẹp nhưng cũng có thuận lợi là tiết kiệm được chi phí và thời gian để thương thảo và có được APA.
+ Hai là, APA song phương: Đối tượng tham gia được mở rộng gồm cơ quan thuế của hai nước và doanh nghiệp. Cách này hiện nay khá phổ biến và được triển khai thông qua kênh “Hiệp định tránh đánh thuế hai lần” theo điều khoản về “Thủ tục thỏa thuận song phương” (Điều 25 của các Hiệp định tránh đánh thuế hai lần).
Việc áp dụng APA song phương hay đơn phương có thể bị ràng buộc bởi nội luật về thẩm quyền cho phép cơ quan thuế có được phép có những thỏa thuận hay thương lượng về thực thi nghĩa vụ thuế. Một số nước trao quyền tự chủ cho cơ quan thuế, cho phép cơ quan thuế được ban hành văn bản hướng dẫn (ở dạng áp dụng riêng) có tính ràng buộc về nghĩa vụ thuế cho những hoạt động kinh tế chưa xảy ra trong những tình huống đặc thù của người nộp thuế cụ thể (được gọi là "cơ chế định trước" - advance ruling) thì APA bao gồm cả 2 dạng nêu trên.
Ở một số nước khi cơ quan thuế không có quyền tự chủ thì chỉ có thể áp dụng cơ chế APA song phương (ví dụ như Thái lan). Lý do của việc này là Hiệp định tránh đánh thuế hai lần là hiệp định ký với nước khác mà có nội dung khác nội luật thì áp dụng những Điều ước quốc tế đã ký. Trong đó, hiệp định có điều khoản về “Thủ tục thoả thuận song phương” cho phép nhà chức trách có thẩm quyền được thực hiện việc thương lượng, thống nhất các biện pháp nhằm tránh đánh thuế hai lần và ngăn ngừa trốn lậu thuế. Việc quản lý giá chuyển nhượng và các vấn đề cần xử lý để hình thành APA hiện nay chiếm trên 90% các trường hợp giải quyết theo điều khoản thủ tục thỏa thuận song phương của các “Hiệp định tránh đánh thuế hai lần”.
Hiện nay, ngày càng nhiều quốc gia áp dụng cơ chế APA và thấy rằng APA có thể cung cấp những giá trị bổ sung cho việc thực thi các quy định quản lý về giá trong giao dịch giữa các bên có quan hệ liên kết. Đặc biệt, khi đàm phán trên cơ sở song phương, APA có thể cung cấp sự chắc chắn cho cả người nộp thuế và cơ quan thuế về việc áp dụng các nguyên tắc định giá chuyển giao cho các giao dịch định
127
kỳ. Một số điểm thuận lợi của một chương trình APA.
- Một chương trình APA có thể giúp người nộp thuế (NNT) loại bỏ sự thiếu chắc chắn thông qua việc tăng cường khả năng dự đoán về việc thực hiện nghĩa vụ thuế trong các giao dịch quốc tế. Khi các giả định trọng yếu được đưa ra là phù hợp, một APA có thể giúp NNT thực hiện nghĩa vụ thuế đối với các vấn đề chuyển giá trong một khoảng thời gian nhất định một cách chắc chắn. Do APA có tính chắc chắn, NNT có thể đoán biết trước nghĩa vụ thuế của mình một cách đáng tin cậy hơn, từ đó, tạo lập môi trường thuế thuận lợi cho việc đầu tư.
- APA có thể cung cấp một cơ hội cho NNT và cơ quan thuế tham khảo ý kiến và hợp tác trong bối cảnh hợp tác, xây dựng để cùng đạt thoả thuận chung, cùng có lợi giữa cơ quan thuế và người nộp thuế. Điều này làm gia tăng đáng kể tính tuân thủ của NNT - ngược lại với bối cảnh khi thực hiện thanh tra, kiểm tra thuế.APA có thể giúp NNT và cơ quan thuế hạn chế các cuộc thanh tra, kiểm tra tốn nhiều thời gian và chi phí, hạn chế các tranh chấp, kiện tụng liên quan đến vấn đề chuyển giá.
- APA song phương giúp giảm thiểu đáng kể khả năng đánh thuế hai lần hoặc không đánh thuế dưới góc độ pháp lý hoặc kinh tế từ tất cả các nước liên quan có tham gia.
- Những khía cạnh về thông tin và tính công khai của một chương trình APA cũng như thái độ hợp tác trong quá trình đàm phán APA giúp cơ quan thuế có được sự am hiểu sâu hơn về các giao dịch quốc tế phức tạp của các tập đoàn đa quốc gia.
Trên cơ sở những hiểu biết chung về APA như đã trình bày ở trên, việc áp dụng chương trình này tại Việt Nam trong thời gian tới nên tập trung triển khai một số nội dung sau:
Thứ nhất, cần rà soát các quy định, điều khoản trong các Hiệp định thuế đã ký kết với cơ quan thuế các nước về nội dung này. Trường hợp trong hiệp định đã có quy định trong điều khoản về “Thủ tục thoả thuận song phương” cho phép người nộp thuế có thể giải trình trường hợp của mình với nhà chức trách có thẩm quyền của nước ký kết thì có thể áp dụng quy định này tại hiệp định để có chương trình thực hiện cơ chế APA đối với các doanh nghiệp của nước tham gia ký kết. Trường hợp trong hiệp định chưa có hoặc đang trong quá trình đàm phán thì cơ quan thuế
128
Việt Nam cần cân nhắc nội dung này để có thể tạo điều kiện thuận lợi trong việc áp dụng APA đối với các doanh nghiệp của nước tham gia ký kết về sau.
Thứ hai, cần đẩy mạnh nghiên cứu các căn cứ, tiêu chí phù hợp để xác định giá thị trường trong giao dịch của các bên có quan hệ liên kết theo từng nhóm ngành nghề, từng loại hình giao dịch, để phục vụ cho việc đánh giá, đàm phán ký kết thực hiện cơ chế APA với các doanh nghiệp và cơ quan thuế các nước.
Thứ ba, trên cơ sở áp dụng thí điểm đối với trường hợp của SEV, Tổng cục thuế cần nghiên cứu, đề xuất với Chính phủ, Quốc hội ban hành văn bản pháp quy phù hợp để hướng dẫn cụ thể trình tự, thủ tục thực hiện cơ chế này tại Việt Nam.
Có thể thấy, đây là một trong những phương thức quản lý thuế mới tại Việt Nam để quản lý giao dịch của các bên có liên kết nhằm chống chuyển giá, tránh gây thất thu về thuế nói chung và thuế TNDN nói riêng. Phương thức quản lý này cũng mang lại nhiều lợi ích cho phía cơ quan thuế nhưng nó cũng tiềm ẩn rủi ro về thất thu thuế nếu việc rà soát, đánh giá và đàm phán APA không được thực hiện một cách nghiêm chỉnh, khoa học.
Các cơ chế chính sách khác liên quan:
Hoàn thiện, cải cách đồng bộ các cơ chế, chính sách quản lý về đất đai, thanh toán không dùng tiền mặt, đăng ký kinh doanh, xuất, nhập khẩu, xuất, nhập cảnh, kế toán, giá... để tạo điều kiện thuận lợi cho công tác quản lý thuế và cải cách hệ thống thuế. Chính sách thuế cần phải thay đổi theo hướng đảm bảo nguồn thu nhưng cũng dưỡng nguồn thu. Các chính sách thu thuế thu nhập lấy mục tiêu “thu bền vững” làm trọng tâm. Tiếp theo việc thay đổi chính sách thuế cần phải có cơ chế quản lý thuế thu nhập rõ ràng. Việc thu thuế thu nhập mang ý nghĩa về mặt kinh tế và xã hội rất lớn. Nếu cơ chế không rõ ràng, chế độ miễn giảm thuế tràn lan, thiếu công bằng là mối nguy hại lớn nhất khi quản lý thuế. Chức năng và quyền hạn của các cán bộ quản lý thuế phải gắn với hiệu quả và có sự giám sát công khai. Cơ chế tự kê khai, nộp thuế phải thống nhất. Quy trình kiểm tra và giám sát thu thuế phải rõ ràng và có sự tham gia của người chịu thuế và nộp thuế. Nên có chế độ khen thưởng cho cá nhân, tổ chức và cán bộ quản lý thuế nhiều hơn.
3.3.4.2. Giải pháp đối với người nộp thuế
- Tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục về thuế thu nhập.