Phương Hướng Hoàn Thiện Chính Sách Thu Hút Đầu Tư Của Việt Nam Trước Xu Thế Hình Thành Các Hiệp Định Thương Mại Tự Do Tại Châu Á - Thái Bình Dương


Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, tăng cường bảo vệ quyền lợi của các nhà kinh doanh nước ngoài qua tăng cường các quy định pháp luật

Từ ngày 1/1/1997, Trung Quốc đã áp dụng các mức giá dịch vụ thống nhất cho phép các nhà ĐTNN được hưởng mọi quy chế như các doanh nghiệp và công nhân Trung Quốc đối với vấn đề thị trường. Sự cải thiện môi trường đầu tư còn được biểu hiện ở chủ trương tăng hiệu quả làm việc của các cấp chính quyền địa phương qua đơn giản hóa các thủ tục phê chuẩn dự án, phục vụ tốt hơn các nhà đầu tư cũng như hoạt động của các Xí nghiệp dùng vốn nước ngoài. Ngoài ra, để bảo vệ nhà ĐTNN, Trung Quốc còn quy định rõ: các Xí nghiệp dùng vốn nước ngoài có quyền từ chối và kiện những ai tùy tiện thu lệ phí. Quy định này nhằm bảo vệ quyền lợi của các nhà ĐTNN.‌


III. PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH THU HÚT ĐẦU TƯ CỦA VIỆT NAM TRƯỚC XU THẾ HÌNH THÀNH CÁC HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI TỰ DO TẠI CHÂU Á - THÁI BÌNH DƯƠNG

1. Quan điểm chủ trương của Đảng và Nhà nước

Nước ta đã bước vào thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2006-2010 trong bối cảnh có nhiều thời cơ, thuận lợi và khó khăn, thách thức đều lớn, đan xen nhau. Trên thế giới, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế chủ đạo; toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế sẽ được đẩy nhanh; đầu tư, lưu chuyển hàng hóa, dịch vụ, lao động và vốn ngày càng mở rộng. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, nhất là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, tiếp tục phát triển mạnh theo chiều sâu, tác động rộng lớn đến cơ cấu và sự phát triển của kinh tế thế giới, mở ra triển vọng mới cho mỗi nền kinh tế tham gia phân công lao động toàn cầu. Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương tiếp tục phát triển năng động, nhất là hiện nay xu thế ký kết các hiệp định thương mại tự do (FTA) diễn ra sôi động một mặt tăng tính liên kết


hợp tác giữa các nền kinh tế trong khu vực, mặt khác tạo sức ép cạnh tranh cho các quốc gia kém phát triển hơn, cả về trong lĩnh vực thương mại lẫn đầu tư.

Trước bối cảnh đó, Đảng và Nhà nước đã xác định:

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 143 trang tài liệu này.

- Hội nhập kinh tế quốc tế là yêu cầu khách quan; phải chủ động, có lộ trình phù hợp với bước đi tích cực, vững chắc, không do dự chần chừ, nhưng cũng không được nóng vội, giản đơn.

- Phải tích cực mở rộng thị trường bên ngoài để đẩy mạnh xuất khẩu, đồng thời phải chủ động mở cửa thị trường trong nước, kể cả thị trường dịch vụ, để thu hút mạnh vốn đầu tư, công nghệ và kỹ năng quản lý tiên tiếntừ bên ngoài, nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế.

Điều chỉnh chính sách thu hút đầu tư của Việt Nam trước xu thế hình thành hiệp định thương mại tự do tại châu Á Thái Bình Dương - 15

- Trong tiến trình mở cửa, hội nhập với nền kinh tế thế giới, phải biết phát huy lợi thế so sánh, tạo môi trường cạnh tranh để phát triển. Đồng thời, để phát triển bền vững, bảo đảm sự ổn định, tăng khả năng độc lập tự chủ của đất nước, nhất thiết phải tăng cường tiềm lực và bảo đảm an ninh kinh tế, đi đôi với củng cố quốc phòng, an ninh.

Trong Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ X, Đảng và Nhà nước đưa ra

định hướng về hội nhập kinh tế quốc tế và thu hút vốn ĐTNN:

- Thực hiện tốt đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước; chủ động, tích cực hội nhập kinh tế sâu hơn và đầy đủ hơn với khu vực và thế giới. Thực hiện có hiệu quả các cam kết với các nước, các tổ chức quốc tế về thương mại, đầu tư, dịch vụ và các lĩnh vực khác. Thực hiện các cam kết của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN và tích cực tham gia quá trình xây dựng Cộng đồng kinh tế ASEAN. Chuẩn bị tốt các điều kiện để đảm bảo thực hiện các cam kết khi nước ta gia nhập WTO.

- Tiếp tục đổi mới thể chế kinh tế, hoàn chỉnh hệ thống pháp luật bảo đảm lợi ích quốc gia và phù hợp với các quy định, thông lệ quốc tế. Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, chú trọng cải cách hành chính, đào tạo nguồn


nhân lực, tạo lập những điều kiện thuận lợi hơn nữa để khai thác lợi thế của đất nước và khắc phục những vướng mắc ảnh hưởng đến việc thu hút các nguồn vốn quốc tế, như vốn ODA, vốn đầu tư trực tiếp, gián tiếp dưới nhiều hình thức, tín dụng thương mại và các nguồn vốn quốc tế khác.

- Tăng cường thu hút vốn ĐTNN, phấn đấu đạt trên 1/3 tổng nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội trong 5 năm. Mở rộng lĩnh vực, địa bàn và hình thức thu hút FDI, hướng vào những thị trường giàu tiềm năng và các tập đoàn kinh tế hàng đầu thế giới, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về số lượng và chất lượng, hiệu quả nguồn FDI; tranh thủ nguồn vốn ODA đi đôi với việc đẩy nhanh tốc độ giải ngân, nâng cao hiệu quả sử dụng và có kế hoạch đảm bảo trả nợ. Từng bước mở rộng đầu tư gián tiếp của nước ngoài và có chính sách hiệu quả hơn để thu hút kiều hối vào phát triển kinh tế. Tạo điều kiện thuận lợi và có cơ chế khuyến khích các hoạt động đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam.

Từ đó, Đảng và Nhà nước đề ra chính sách nhằm thu hút mạnh nguồn lực của các nhà ĐTNN:

- Đảng ta xác định các doanh nghiệp có vốn ĐTNN là một bộ phận quan trọng của nền kinh tế Việt Nam nên cần được đối xử bình đẳng như doanh nghiệp Việt Nam trong kinh doanh. Đồng thời tạo điều kiện cho ĐTNN tham gia nhiều hơn vào phát triển các ngành, các vùng lãnh thổ phù hợp với các cam kết quốc tế của nước ta.

- Đa dạng hóa hình thức và cơ chế đầu tư để thu hút mạnh nguồn lực của các nhà ĐTNN, gồm cả đầu tư trực tiếp và gián tiếp, vào các ngành, các lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế, nhất là các lĩnh vực công nghệ cao, công nghệ nguồn, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội.

- Bảo đảm tính thống nhất, ổn định, minh bạch và ngày càng hấp dẫn trong chính sách ĐTNN. Đổi mới phương thức quản lý nhà nước và cải tiến


mạnh mẽ thủ tục đầu tư, thực hiện đúng theo các quy định của Luật Đầu tư và phù hợp với lộ trình thực hiện các cam kết quốc tế của nước ta.


Đồng thời, Đảng ta cũng đề ra việc đổi mới chính sách đầu tư:

- Đổi mới chính sách và cải thiện môi trường đầu tư, xóa bỏ các hình thức phân biệt đối xử trong tiếp cận các cơ hội đầu tư để khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn từ các thành phần kinh tế trong nước và thu hút vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp từ nước ngoài.

- Tiếp tục hoàn thiện thể chế để đảm bảo đầu tư của Nhà nước có hiệu quả, khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải, thất thoát, lãng phí. Vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước tập trung cho kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, phát triển văn hóa, giáo dục, khoa học – công nghệ, y tế và trợ giúp vùng khó khăn. Vốn tín dụng ưu đãi của Nhà nước dành ưu tiên cho việc xây dựng các cơ sở thuộc kết cấu hạ tầng có thu hồi vốn và hỗ trợ đầu tư một số dự án quan trọng thiết yếu của nền kinh tế. Đầu tư của DNNN hướng vào nâng cao năng lực sản xuất, đổi mới thiết bị, hiện đại hóa công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm. Vốn của khu vực dân doanh được khuyến khích đầu tư vào các lĩnh vực tạo nhiều sản phẩm xuất khẩu và việc làm. Khuyến khích người Việt Nam định cư ở nước ngoài chuyển vốn và công nghệ về nước tham gia đầu tư.

- Tiếp tục tranh thủ nguồn vốn ODA. Đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn các công trình, dự án đã được ký kết; xây dựng Chiến lược thu hút và sử dụng vốn ODA cho thời kỳ mới, tập trung vào các lĩnh vực kết cấu hạ tầng kỹ thuật ở các trung tâm kinh tế và các vùng có điều kiện kinh tế, xã hội khó khăn.

- Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư trực tiếp của nước ngoài, tạo lợi thế so sánh để thu hút nhiều doanh nghiệp lớn, các tập đoàn kinh tế hàng đầu thế giới đầu tư cho sản phẩm xuất khẩu và công nghệ cao, tạo sự chuyển biến tích cực về chất lượng, số lượng và hiệu quả ĐTNN.

- Đơn giản hóa thủ tục cấp phép đầu tư đối với ĐTNN; thu hẹp các lĩnh vực không cho phép đầu tư và những lĩnh vực đầu tư có điều kiện, mở rộng lĩnh vực đăng ký đầu tư. Tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà ĐTNN đầu tư phát triển các lĩnh vực dịch vụ theo các cam kết quốc tế.


2. Phương hướng điều chỉnh và hoàn thiện chính sách thu hút đầu tư

Như vậy, trước xu thế diễn ra mạnh mẽ việc ký kết các FTA trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương trong khi Việt Nam chưa tham gia vào một BFTA nào sẽ gây bất lợi cho Việt Nam nhiều hơn là lợi ích. Hiện nay, mặc dù Việt Nam được đánh giá có môi trường kinh tế chính trị ổn định, có nguồn nhân lực dồi dào và giá nhân công rẻ nhưng sức hấp dẫn đầu tư của nền kinh tế Việt Nam và khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp đầu tư tại Việt Nam đang ngày càng giảm sút và rơi vào thế bất lợi khi hầu hết các nền kinh tế chủ chốt trong khu vực cũng như các thành viên sáng lập ASEAN đều đã và đang hình thành các BFTA với các cường quốc như Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc. Bên cạnh việc Chính phủ Việt Nam cần nghiên cứu và xem xét việc thiết lập FTA với một số quốc gia thì hiện nay Việt Nam cần phải có những điều chỉnh trong chính sách thu hút ĐTNN để tránh không để nguồn vốn ĐTNN chảy ra và để thu hút hơn nữa nguồn vốn này.

2.1. Vấn đề liên quan đến thành lập các dự án ĐTNN

Như đã đề cập ở trên, Việt Nam hiện nay vẫn còn duy trì hai chế độ cấp phép đầu tư, thủ tục thì rườm rà phức tạp. Trong khi đó, ở nhiều nước chế độ đăng ký cấp phép đầu tư là phổ biến, thậm chí có nước chỉ yêu cầu các nhà ĐTNN thông báo khi muốn tiến hành dự án ĐTNN. Chính vì vậy, trong thời gian tới, cần quy định chính sách “một cửa” đối với thủ tục thành lập các doanh nghiệp ĐTNN. Ngoài ra, cũng cần tiến tới xóa bỏ hình thức thẩm định cấp giấy phép đầu tư và dần dần thay thế bằng hình thức đăng ký cấp giấy phép đầu tư.

Bên cạnh đó, cần tiến hành cải tiến thủ tục đầu tư và nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước về ĐTNN theo những hướng cơ bản sau:

- Đẩy mạnh phân cấp quản lý Nhà nước về ĐTNN cho UBND cấp tỉnh và các Ban quản lý KCN, nhưng phải thống nhất về quy hoạch, cơ cấu, chính


sách, cơ chế quản lý. Tăng cường sự hướng dẫn và kiểm tra, giám sát của các bộ, ngành Trung ương để vừa phát huy tính chủ động của địa phương, vừa tránh phá vỡ quy hoạch.

- Tiếp tục mở rộng phạm vi dự án đăng ký cấp giấy phép, công bố công khai mọi quy trình, thời hạn trách nhiệm xử lý các thủ tục ĐTNN.

- Rà soát lại tính khả thi của các dự án ĐTNN chưa thực hiện và trao đổi với các nhà ĐTNN để ra quyết định cuối cùng.

- Hoàn chỉnh các quy trình văn bản pháp quy để ngăn chặn việc ban hành các văn bản trái với quy định chung hoặc thực hiện không nghiêm các quyết định của Chính phủ trong lĩnh vực ĐTNN. Xây dựng quy chế phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành, UBND cấp tỉnh trong việc quản lý hoạt động ĐTNN theo đúng thẩm quyền, trách nhiệm. Quy định cụ thể để chấm dứt sự kiểm tra tùy tiện, tránh hình sự hóa các quan hệ kinh tế. Áp dụng các chế tài đối với các doanh nghiệp vi phạm pháp luật.

2.2. Các chính sách về vốn và tài chính, tín dụng, ngoại hối trong doanh nghiệp có vốn ĐTNN

Thứ nhất, cần tăng tỷ lệ góp vốn của bên nước ngoài vào các dự án ĐTNN trong các ngân hàng thương mại, đồng thời tăng tỷ lệ tham gia của bên nước ngoài trên thị trường chứng khoán tạo điều kiện cho thị trường chứng khoán hoạt động sôi động hơn.

Thứ hai, tiếp tục nghiên cứu giảm dần tỷ lệ kết hối ngoại tệ và tiến tới xóa bỏ kết hối bắt buộc; từng bước thực hiện mục tiêu tự do hóa chuyển đổi ngoại tệ đối với các giao dịch vãng lai. Nghiên cứu ban hành các mức lãi suất trần hợp lý đối với khoản vay nước ngoài của các doanh nghiệp. Xây dựng, hoàn thiện các quy định về đảm bảo vay vốn, cầm cố, thế chấp, bảo lãnh để doanh nghiệp ĐTNN có thể vay vốn của ngân hàng trong, ngoài nước và các tổ chức quốc tế; từng bước nới lỏng hạn chế áp dụng đối với ngân hàng nước ngoài nhận tiền gửi bằng tiền đồng Việt Nam. Tiếp tục cải tiến chính sách tín


dụng để các doanh nghiệp có vốn ĐTNN được tiếp cận thuận lợi, bình đẳng thị trường vốn; được vay tín dụng kể cả trung và dài hạn tại các tổ chức tín dụng hoạt động tại Việt Nam. Bên cạnh đó, cần xây dựng các đề án cụ thể để chủ động ứng phó có hiệu quả trước những biến động tài chính, tiền tệ, thương mại, giá cảtrên thị trường thế giới và thị trường trong nước.

2.3. Các vấn đề trong quá trình thực hiện các dự án ĐTNN

Thứ nhất, cần mở rộng các ngành nghề được phép bán cổ phần cho nhà ĐTNN theo hướng sử dụng danh mục ngành nghề, lĩnh vực không cho phép nhà ĐTNN được mua cổ phần. Những ngành nghề không thuộc danh mục này nên cho phép các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa cũng được phép bán cổ phần cho nhà ĐTNN.

Thứ hai, cần hoàn thiện chính sách thuế theo hướng:

- Hoàn thiện hệ thống thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân, thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt theo hướng phù hợp với yêu cầu hội nhập, thông lệ quốc tế. Đồng thời, cần giảm mức thuế suất của các loại thuế này nhằm tạo thế cân bằng với các nước trong khu vực.

- Thực hiện quá trình cải cách hệ thống thuế xuất nhập khẩu nhằm đáp ứng yêu cầu của quá trình hội nhập mở cửa nền kinh tế, thực hiện nhất quán lộ trình cắt giảm thuế theo hiệp định song phương và đa phương mà Việt Nam đã và sẽ ký kết (AFTA, ACFTA, AKFTA, Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ, WTO); công khai thời gian và mức độ cắt giảm thuế nhập khẩu để các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế chủ động trong hội nhập và cạnh tranh ở thị trường trong nước và quốc tế.

Thứ ba, cần tiếp tục điều chỉnh giá, phí một số hàng hóa và dịch vụ nhằm giảm chi phí đầu tư, nâng cao sức cạnh tranh của Việt Nam với các nước trong khu vực. Cải thiện nhanh môi trường đầu tư để thu hút đầu tư trong nước, nhất là ĐTNN theo hướng kiên quyết giảm giá đầu vào của sản xuất thuộc thẩm quyền của Nhà nước, đặc biệt là một số loại giá có tính độc

Xem tất cả 143 trang.

Ngày đăng: 01/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí