đổi, giám sát hoạt động, việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của QTV, DN quản lý, thanh lý tài sản. Trong khi đó, việc cấp, thu hồi Chứng chỉ hành nghề QTV, thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm về hoạt động hành nghề quản lý, thanh lý tài sản được giao cho Bộ Tư pháp thực hiện. Điều này gây ra sự thiếu thống nhất và khó khăn trong thực tiễn quản lý, giám sát hoạt động của QTV cũng như việc đề xuất, triển khai các cơ chế, biện pháp hỗ trợ hoạt động hành nghề đối với đối tượng này.
Nguyên nhân của hạn chế này bao gồm:
- Sự phối hợp của các cơ quan hữu quan như Toà án, Cơ quan thi hành án dân sự, Cơ quan tư pháp hành chính… trong việc xây dựng, ban hành các hướng dẫn chi tiết thực hiện địa vị pháp lý của QTV còn chưa tốt. Đặc tính mô hình pháp lý của Việt Nam là hình ―chiếc nón úp ngược‖ – những văn bản pháp lý cao hơn phải có sự phò tá của các văn bản pháp lý thấp hơn. Đó là một mô hình Luật phải chờ Nghị định, Nghị định phải chờ Thông tư, thậm chí Thông từ phải chờ công văn, chỉ thị… Chính vì thế, các văn bản hướng dẫn thực hiện địa vị pháp lý của QTV đóng vai trò rất quan trọng trong việc giải đáp các khúc mắc trong quy định của pháp luật hiện hành về định chế này. Tuy nhiên, cho đến nay, bản thân cơ quan chủ quản là Bộ Tư pháp và các cơ quan hữu quan có liên quan chưa có động thái trong việc ban hành hoặc liên tịch ban hành các văn bản hướng dẫn có vai trò ―phò tá‖ Luật Phá sản năm 2014 và Nghị định 22/2015/NĐ-CP.
- Trình độ năng lực của một số người tiến hành thủ tục phá sản (thẩm phán, kiểm sát viên, QTV, chấp hành viên…) còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu của công tác giải quyết phá sản DN; thiếu sự am hiểu sâu sắc về nội dung Luật Phá sản và các lĩnh vực chuyên ngành khác như tài chính, ngân hàng, quản lý kinh tế, kế toán thống nhất và các ngành luật khác. Trong một số trường hợp, thẩm phán còn chưa nắm rõ về chế định QTV, về vị trí, vai trò của QTV, DN quản lý, thanh lý tài sản, do đó, việc chỉ định QTV, DN quản lý, thanh lý tài sản thực hiện nhiệm vụ theo quy định còn chậm, ảnh hưởng chung đến quá trình giải quyết vụ việc phá sản.
- Thiếu một hệ thống thông tin đồng bộ về QTV để các chủ thể quản lý nhà nước cập nhật, khai thác chung đã dẫn đến tình trạng khó khăn trong quản lý nhà nước về QTV. Đặc biệt, với quy định cho phép QTV được hoạt động ngoài địa phương cấp tỉnh mà QTV đó đăng ký nhưng lại không có cơ chế chia sẻ thông tin giữa các địa phương hay tổ chức chủ quản khiến cho cơ quan đăng ký QTV không
nắm bắt được các vụ việc mà QTV tham gia ngoài phạm vi lãnh thổ quản lý của mình. Điều này cũng gây khó khăn cho việc đánh giá hoạt động của QTV.
Thứ bảy, việc giám sát hoạt đ ng của QTV chưa hiệu quả. Hiện nay, Luật Phá sản 2014 và Nghị định số 22/2015/NĐ-CP quy định tòa án là cơ quan trực tiếp chỉ định, thay đổi, giám sát hoạt động, việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của QTV, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản. Trong khi đó, việc cấp, thu hồi Chứng chỉ hành nghề QTV, thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm về hoạt động hành nghề quản lý, thanh lý tài sản được giao cho Bộ Tư pháp thực hiện. Điều này gây ra sự thiếu thống nhất và khó khăn trong thực tiễn quản lý, giám sát hoạt động của QTV cũng như việc đề xuất, triển khai các cơ chế, biện pháp hỗ trợ hoạt động hành nghề đối với đối tượng này. Bên cạnh đó, sự giám sát của chấp hành viên đối với QTV cũng gặp nhiều khó khăn, vướng mắc về mặt thủ tục. Đồng thời lực lượng chấp hành viên cũng thiếu về quân số để giám sát hoạt động của QTV một cách thường xuyên và hiệu quả.
Bên cạnh đó, trách nhiệm của các chủ thể giám sát QTV khi để QTV thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật cũng chưa được làm rõ và thực hiện trên thực tiễn. Ví dụ trong trường hợp phá sản của công ty Thanh Nguyên, QTV thực hiện bắt giữ người và cưỡng chế thu hồi tài sản trái pháp luật, song các chủ thể giám sát hoạt động của QTV trong vụ việc này lại không bị áp đặt các trách nhiệm pháp lý.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3
Kết quả nghiên cứu Chương 03 cho thấy, địa vị pháp lý của QTV ở Việt Nam mới chỉ xuất hiện trong Luật Phá sản năm 2014 và các văn bản liên quan đến luật này. Do đó, có thể khẳng định đây là một vấn đề mới. Theo đó, QTV được ghi nhận là một cá nhân có chức năng quản lý và thanh lý tài sản trong thủ tục phá sản DN, HTX do Thẩm phán chỉ định hoặc do người nộp đơn yêu cầu phá sản đề xuất.
Có thể bạn quan tâm!
- Thực Tiễn Thực Hiện Quy Định Về Trách Nhiệm Pháp Lý Của Quản Tài Viên Theo Luật Phá Sản
- Đánh Giá Thực Trạng Địa Vị Pháp Lý Của Quản Tài Viên Theo Pháp Luật Phá Sản Việt Nam
- Những Hạn Chế, Vướng Mắc Và Nguyên Nhân
- Các Giải Pháp Phải Đảm Bảo Kế Thừa Những Giá Trị Hợp Lý Của Lịch Sử Bên Cạnh Sự Tiếp Thu Có Chọn Lọc Kinh Nghiệm Quốc Tế
- Hoàn Thiện Pháp Luật Về Các Tiêu Chuẩn Đạo Đức Của Quản Tài Viên
- Địa vị pháp lý của quản tài viên theo pháp luật phá sản Việt Nam hiện nay - 21
Xem toàn bộ 182 trang tài liệu này.
Quy định của pháp luật hiện hành về địa vị pháp lý của QTV cũng tương đối đầy đủ 4 thành phần cấu thành như đã phân tích gồm: điều kiện tham gia thủ tục phá sản; quyền và nghĩa vụ của QTV trong thủ tục phá sản; trách nhiệm pháp lý của QTV và mối quan hệ của QTV với các chủ thể khác. Tuy nhiên, sự ghi nhận này của pháp luật vẫn còn nhiều vấn đề chưa được đầy đủ. Cụ thể, có bảy vấn đề sau: Thứ nhất, các quy định về trình tự, thủ tục hoạt động của QTV chưa được ban hành; Thứ hai, quy định các nội dung thông tin về QTV đăng ký hành nghề còn chưa đầy đủ; Thứ ba, mặc dù pháp luật hiện hành đã có những quy định về quyền chỉ định QTV của Toà án và quyền yêu đề xuất QTV của người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, nhưng chưa có các quy định chỉ dẫn giải quyết trường hợp mâu thuẫn giữa hai chủ thể này trong lựa chọn quản tài viên; Thứ tư, điều kiện về đạo đức của QTV đã được pháp luật về phá sản hiện hành nhắc tới nhưng chưa có quy định cụ thể; Thứ năm, việc QTV từ chối tham gia thủ tục phá sản khi được chỉ định chưa có văn bản hướng dẫn giải quyết; Thứ sáu, vấn đề đại diện trong kiểm kê tài sản đã có quy định nhưng thiếu cơ chế đảm bảo thực hiện; Thứ bảy, kinh phí, thù lao cho QTV vẫn còn nhiều lỗ hổng chưa khắc phục được.
Nguyên nhân của các hạn chế trên được xác định gồm: Thứ nhất, hiện thực khách quan biến đổi không ngừng, nhiều quan hệ kinh doanh, thương mại được thiết lập, các chủ thể có những hành vi vô tình hoặc cố ý làm phức tạp thủ tục phá sản nằm ngoài sự ghi nhận của pháp luật hiện hành; Thứ hai, năng lực xây dựng pháp luật về phá sản còn hạn chế; Thứ ba, sự phối hợp của các cơ quan hữu quan như Toà án, Cơ quan thi hành án dân sự, Cơ quan tư pháp hành chính… trong việc xây dựng, ban hành các hướng dẫn chi tiết thực hiện địa vị pháp lý của QTV còn chưa tốt.
Chương 4
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO ĐỊA VỊ PHÁP LÝ
CỦA QUẢN TÀI VIÊN THEO PHÁP LUẬT PHÁ SẢN VIỆT NAM HIỆN NAY
4.1. Bối cảnh xây dựng giải pháp hoàn thiện và nâng cao địa vị pháp lý của quản tài viên ở Việt Nam hiện nay
Hoàn thiện quy định của pháp luật về địa vị pháp lý của QTV là một đòi hỏi tất yếu trong vấn đề pháp điển hoá về phá sản ở Việt Nam hiện nay. Sự tất yếu này không chỉ xuất phát từ những hạn chế và nguyên nhân đã được phân tích ở Chương 03, mà còn xuất phát từ những đòi hỏi của bối cảnh vận động kinh tế, xã hội trong nước và quốc tế. Các bối cảnh này vừa đặt ra những yêu cầu pháp điển hoá địa vị pháp lý của QTV theo pháp luật phá sản, vừa tác động trực tiếp đến nội dung của các quan điểm và các giải pháp.
Thứ nhất, bối cảnh ảnh hưởng của dịch bệnh phức tạp cả trên phạm vi trong nư c lẫn toàn c u. Covid-19 là vấn đề thời sự cho đến ngày nay và cả trong tương lai gần của nhân loại. Dịch bệnh này không chỉ trực tiếp ảnh hưởng đến sức khoẻ và tính mạng của con người mà còn ―phủ bóng đen‖ lên nền kinh tế toàn cầu. Theo thống kê, tính đến hết tháng 6 năm 2021, trên phạm vi toàn thế giới có hơn 194 triệu người mắc và hơn 4,15 triệu người chết [100]. Nền kinh tế thế giới hứng chịu sự sụt giảm kỷ lục vì đại dịch với mức giảm 4,3% so với năm 2018, tổng thiệt hại của nền kinh tế thế giới ước đạt 10.000 tỷ đô la Mỹ [49]. Tại Việt Nam, chỉ tính riêng 06 tháng đầu năm 2021, có 70,2 nghìn DN tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể và hoàn tất thủ tục giải thể, tăng 24,9% so với cùng kỳ năm 2020, bao gồm: 35,6 nghìn DN tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, tăng 22,1% so với cùng kỳ năm trước; 24,7 nghìn DN ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể, tăng 25,7%; 9.900 DN hoàn tất thủ tục giải thể, tăng 33,8%. Trung bình mỗi tháng có 11,7 nghìn DN rút lui khỏi thị trường [11]. Hậu quả này gây ra nhiều tác động và hệ luỵ cho đời sống xã hội, trong đó có vấn đề thủ tục phá sản.
DN lâm vào tình trạng phá sản cao đã đẩy hoạt động thủ tục phá sản lên mức cao. Điều này cũng đồng nghĩa với việc, địa vị pháp lý của QTV cũng hiện diện nhiều hơn trong đời sống thực tiễn. Số lượng thủ tục phá sản tăng, hiện diện của địa vị pháp lý của QTV càng lớn, những điều này khiến cho các hạn chế của quy định pháp luật về địa vị pháp lý của QTV càng bộc lộ rõ và thường xuyên trong giai đoạn
hiện nay. Trong tình thế cấp bách, số lượng DN chờ phá sản nhiều dẫn đến tình trạng ùn ứ trong giải quyết thủ tục, cộng với những hạn chế của quy định pháp luật về địa vị pháp lý của QTV tiềm ẩn nhiều xung đột, vướng mắc sẽ góp phần khiến thủ tục phá sản kéo dài hơn, gây ảnh hưởng đến không chỉ quyền, lợi ích hợp pháp của DN, HTX phá sản, của người lao động, của chủ nợ… mà còn ảnh hưởng tiêu cực đến sự luân chuyển của đời sống kinh tế, xã hội quốc gia. Bối cảnh này đặt ra vấn đề hoàn thiện quy định pháp luật về địa vị pháp lý của QTV là một đòi hỏi bức thiết, có ý nghĩa trong giai đoạn hiện nay và cả trong thời gian tới.
Thứ hai, bối cảnh h i nhập quốc t ngày càng sâu r ng. Việt Nam đang bước vào trạng thái hoà nhập sâu rộng với thế giới về mọi mặt. Trong đó hội nhập kinh tế là trọng tâm và hội nhập pháp lý là điều kiện kéo theo bắt buộc.
Hội nhập kinh tế là xu hướng tất yếu của bất kỳ quốc gia dân chủ đương đại nào, và Việt Nam cũng không ngoại lệ. Những năm gần đây, Việt Nam đang tích cực tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu và trở thành một mắt xích quan trọng của chuỗi cung ứng đó. Hội nhập kinh tế thế giới là một trạng thái hai chiều: Chiều thứ nhất, Việt Nam vươn ra thế giới, nơi là một ―sân chơi chung‖ với những quy tắc chung. Những quy tắc này được xây dựng dựa trên sự đồng thuận của các thành viên và không ai được phép tự đặt mình ra ngoài. Chính vì thế, các DN Việt Nam hội nhập với kinh tế thế giới đòi hỏi phải chuẩn bị sẵn tư tưởng, tư duy và tâm lý về tuân thủ những quy tắc chung mang tính toàn cầu. Trong đó vấn đề phá sản là một nội dung rất quan trọng, những định chế trung gian trong luật phá sản của quốc tế xuất hiện ngày càng nhiều và thể hiện càng rõ nét vai trò trong giải quyết tranh chấp thương mại nói chung và trong phá sản nói riêng. Chính vì thế, gia tăng sự hiện diện địa vị pháp lý của QTV trong thủ tục phá sản ở Việt Nam là đòi hỏi tất yếu để trang bị cho các DN tư duy và tâm lý về định chế này trong pháp luật quốc tế.
Chiều ngược lại của hội nhập thể hiện ở chỗ chính Việt Nam trở thành môi trường đầu tư quốc tế. Khi đó, Việt Nam với vai trò là ―chủ nhà‖ cũng sẽ thiết lập những ―luật chơi‖ phục vụ cho chiều hội nhập này. Tuy nhiên, các luật chơi này không thể là luật chơi riêng, mang tính cá biệt mà phải phù hợp với thông lệ quốc tế và được sự chấp thuận của cộng đồng quốc tế. Chính vì thế, hệ thống pháp lý của Việt Nam cũng đòi hỏi phải sớm cập nhật những định chế phổ biến của thế giới. QTV ra đời năm 2014 là một sự cập nhật như thế, tuy nhiên, trải qua hơn 06 năm, tư duy pháp lý về phá sản quốc tế cũng đã có những biến đổi nhất định nên
đòi hỏi Việt Nam phải có những chỉnh sửa hoàn thiện địa vị pháp lý của QTV cho phù hợp, bắt kịp với những thay đổi của thế giới.
Thứ ba, bối cảnh Luật Phá sản năm 2014 v các văn bản hư ng dẫn thi hành đã b c l nhiều đi m y u. Luật Phá sản số 51/2014/QH13 ngày 19/6/2014 là một định chế tư pháp trong nền kinh tế thị trường. Luật này quy định về trình tự, thủ tục nộp đơn, thụ lý và mở thủ tục phá sản; xác định nghĩa vụ về tài sản và biện pháp bảo toàn tài sản trong quá trình giải quyết phá sản; thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh; tuyên bố phá sản và thi hành quyết định tuyên bố phá sản áp dụng- đối với phá sản doanh nghiệp và hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã... Tuy nhiên, qua thực tiễn thi hành áp dụng luật này có nhiều bất cập, hạn chế chưa được dự liệu giải quyết những tồn tại và phát sinh trong thực tế đối với vụ việc phá sản doanh nghiệp. Các hạn chế nổi bật có thể kể tới như: (1) quy định về tiêu chí để xác định ―Doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán‖chưa tính đến những trường hợp DN, HTX bị mất khả năng thanh toán tạm thời do số tài sản bị chiếm dụng cao hơn nhiều so với số tài sản phải thanh toán nhưng chưa thu hồi được tài sản bị chiếm dụng này để thanh toán khiến cho nhiều chủ nợ lợi dụng khả năng yêu cầu phá sản DN, HTX đang rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán tạm thời; (2) quy định về thời hạn ra quyết định thi hành án và định giá lại tài sản trong Luật Phá sản năm 2014 chưa thống nhất với Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014)
Cụ thể, Luật Phá sản năm 2014 quy định trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày ra quyết định tuyên bố phá sản, cơ quan thi hành án dân sự có trách nhiệm chủ động ra quyết định thi hành, phân công Chấp hành viên thi hành quyết định tuyên bố phá sản. Trong khi đó, Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014) quy định trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được quyết định của Tòa án giải quyết phá sản thì Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền chủ động ra quyết định thi hành án và phân công Chấp hành viên tổ chức thi hành. Điều này đã gây khó khăn cho cơ quan thi hành án dân sự trong việc ban hành quyết định thi hành án, đồng thời là nguyên nhân làm phát sinh các khiếu nại liên quan đến việc tuân thủ quy định về thời hạn ra quyết định thi hành án; (3) quy định về tạm ứng chi phí phá sản và mở tài khoản để nộp tiền tạm ứng chi phí phá sản còn thiếu cơ sở thi hành. Cụ thể, Luật Phá sản năm 2014 không quy định cụ thể về cách tính tạm ứng chi phí phá sản. Nghị định số 22/2015/NĐ-CP ngày 16/02/2015 của Chính phủ hướng dẫn quy định về QTV và hành nghề quản lý, thanh lý tài sản chỉ
bao hàm quy định hướng dẫn về cách tính mức thù lao đối với QTV mà không có bất cứ quy định nào hướng dẫn cách tính tạm ứng chi phí phá sản. Bên cạnh đó, Luật Phá sản năm 2014 và Nghị định số 22/2015/NĐ-CP cũng quy định chưa cụ thể về thủ tục mở, quản lý tài khoản do Tòa án mở tại Ngân hàng để thu tiền tạm ứng chi phí phá sản. Điều này gây lúng túng cho Tòa án trong việc tổ chức thực hiện trên thực tế, dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau như tài khoản mở tại ngân hàng được sử dụng cho một vụ hay nhiều vụ phá sản… Những hạn chế này đã khiến cho trên thực tế, mặc dù dịch bệnh và sự cạnh tranh lớn khiến cho số lượng lớn DN và HTX rời bỏ thị trường. Tuy nhiên, tỷ lệ tìm đến thủ tục phá sản để chấm dứt hoạt động của mình rất thấp. Điều này đã khiến cho tinh thần pháp lý của Luật Phá sản năm 2014 và các văn bản liên quan không đạt được. Thực tế đó đã đặt ra nhu cầu sửa đổi Luật Phá sản năm 2014 theo hướng khắc phục những hạn chế, bất cập của đạo luật này.
QTV được ghi nhận là một chế định mang tính đột phá của Luật Phá sản năm 2014. Tuy nhiên, bản thân ghi nhận pháp lý của chế định này cũng tồn tại nhiều hạn chế trong quy định của pháp luật về địa vị pháp lý của QTV như đã phân tích tại Chương 3. Chính vì thế, trong bối cảnh đặt ra nhu cầu bức thiết phải tiến hành sửa đổi và hoàn thiện Luật Phá sản năm 2014, việc hoàn thiện pháp luật về địa vị pháp lý của QTV cũng đang được đặt ra và trở thành một trong những vấn đề cốt lõi của sửa đổi Luật Phá sản năm 2014.
Thứ tư, bối cảnh giai đoạn phát tri n kinh t mạnh mẽ của đất nư c. Sự phát triển của Việt Nam trong hơn 30 năm qua rất đáng ghi nhận. Đổi mới kinh tế và chính trị từ năm 1986 đã thúc đẩy phát triển kinh tế, nhanh chóng đưa Việt Nam từ một trong những quốc gia nghèo nhất trên thế giới trở thành quốc gia thu nhập trung bình thấp. Từ 2002 đến 2018, GDP đầu người tăng 2,7 lần, đạt trên 2.700 USD năm 2019, với hơn 45 triệu người thoát nghèo. Tỉ lệ nghèo giảm mạnh từ hơn 70% xuống còn dưới 6% (3,2 USD/ngày theo sức mua ngang giá) [49]. Trong giai đoạn 10 năm tới, Việt Nam kỳ vọng đạt tốc độ tăng trưởng GDP khoảng 7%/năm. Đến năm 2025, Việt Nam là nước đang phát triển có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp. Trong đó, GDP/người giá thực tế giai đoạn này đạt 4.700 - 5.000 USD, năm 2020, GDP/người đã đạt 3.521 USD. Đến năm 2030, là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. GDP/người giá thực tế đạt khoảng 7.500 USD. Hướng đến năm 2045 trở thành
nước phát triển, thu nhập cao [112]. Lộ trình phát triển này là khả quan và cho thấy trong tương lai gần xuyên suốt lộ trình đó sẽ có rất nhiều sự biến đổi trong đời sống kinh tế, xã hội bao gồm cả việc một cơ chế thị trường tự do mới sẽ được xác lập, số lượng và quy mô của các DN, HTX sẽ gia tăng liên tục và nhanh chóng; sự cạnh tranh sẽ ngày càng trở nên khắc nghiệt… kéo theo đòi hỏi cao hơn sự thay đổi và hoàn thiện của các khung pháp lý về kinh doanh, thương mại, thị trường, DN… sẽ xuất hiện. Trong đó, vấn đề pháp lý liên quan đến phá sản DN, HTX và có thể bao gồm cả vấn đề phá sản của cá nhân sẽ được đặt ra và yêu cầu hoàn thiện. Địa vị pháp lý của QTV là một cấu thành quan trọng của pháp luật phá sản hiện đại, bối cảnh này tác động lên vấn đề hoàn thiện địa vị pháp lý của định chế này cũng là câu chuyện tất yếu của tương lai.
4.2. Những yêu cầu đặt ra cho việc hoàn thiện và nâng cao địa vị pháp lý của quản tài viên theo pháp luật phá sản ở Việt Nam hiện nay
Xây dựng và đề xuất các giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về địa vị pháp lý của QTV ở Việt Nam hiện nay là một công việc phức tạp và đòi hỏi phải có những nguyên tắc của riêng nó. Các nguyên tắc chính là những giới hạn hợp lý của giải pháp để giúp tăng khả năng ứng dụng giải pháp trên thực tiễn thay vì chỉ được trình bày trên giấy tờ. Trong giới hạn của Luận án, NCS xác định ra các nguyên tắc này dưới dạng những quan điểm xây dựng giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về địa vị pháp lý của QTV ở Việt Nam hiện nay với 04 quan điểm cơ bản sau đây:
4.2.1. Hoàn thiện và nâng cao địa vị pháp lý của quản tài viên theo pháp luật phá sản Việt Nam cần phải phù hợp với tình hình, điều kiện thực tiễn đất nước
Các giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về địa vị pháp lý của QTV ở Việt Nam hiện nay hướng tới mục tiêu cung ứng các giải pháp mang tính đột phá nhằm hoàn thiện địa vị pháp lý của QTV theo hướng hiện đại, khoa học, đáp ứng nhu cầu và tiêu chuẩn theo đòi hỏi của xã hội. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là các giải pháp này sẽ sáng tạo ra những quan điểm vượt ra ngoài giới hạn của tư duy và điều kiện pháp lý của Việt Nam hiện nay. Ngược lại, các giải pháp đó phải được xây dựng dựa trên nền tảng pháp lý hiện tại, trong khuôn khổ của tư tưởng pháp lý hiện tại với mục tiêu quay trở lại cải tạo chính nền tảng và tư tưởng đó. Quan điểm về nguyên tắc thứ nhất này được thể hiện cụ thể ở các khía cạnh sau:
Thứ nhất, giải pháp hoàn thiện v nâng cao địa vị pháp lý của QTV phải phù hợp v i quan đi m pháp lý về kinh t thị trường hiện nay. Theo đó, tư duy pháp lý