Di chúc chung của vợ chồng theo pháp luật Dân sự Việt Nam hiện hành - 2


- Luật thừa kế Việt Nam của PGS.TS Phùng Trung Tập cùng một số bài viết trên tạp chí Luật học, tạp chí Dân chủ và pháp luật.

Tuy nhiên các công trình nói trên chỉ giải quyết quan hệ thừa kế theo di chúc và theo pháp luật nói chung hoặc giải quyết những vấn đề cụ thể trong quan hệ thừa kế di sản mà chưa có một công trình nào nghiên cứu về di chúc chung của vợ, chồng theo pháp luật Dân sự Việt Nam.

1.3. Tính mới và những đóng góp của đề tài:

- Đây là một vấn đề mới, có ý nghĩa quan trọng trên phương diện lý luận cũng như thực tiễn. Luận văn đi sâu làm sáng rõ những điều bất cập mà pháp luật đã quy định.

- Luận văn đưa ra khái niệm di chúc chung của vợ chồng, đưa ra những điều kiện để di chúc của vợ chồng có hiệu lực pháp luật.

- Luận văn so sánh di chúc chung của vợ chồng theo pháp luật Việt Nam với pháp luật các quốc gia trên thế giới từ đó làm sáng tỏ những điểm đặc thù về di chúc chung của vợ chồng, từ đó đưa ra những kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam.

Tóm lại, các công trình nghiên cứu nói trên đã nêu ra nhiều vấn đề cơ bản về lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật thừa kế trên nhiều góc độ, tuy nhiên các công trình dưới góc độ lý luận hoàn thiện pháp luật về thừa kế còn ít, chưa đầy đủ. Các quy định về thừa kế tuy còn nhiều điểm phải hoàn thiện nhưng được đánh giá là một trong những chế định hoàn thiện nhất của Bộ luật Dân sự. Tuy nhiên, cũng như việc hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam, các quy định về thừa kế cũng phải hoàn thiện để không một quan hệ thừa kế nào nằm ngoài sự điều chỉnh của pháp luật. Luận văn sẽ nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề này, đây là đề tài hoàn toàn độc lập, không có sự trùng lặp với bất kỳ công trình nào khác.


2. Nội dung, địa điểm và phương pháp nghiên cứu

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 97 trang tài liệu này.

2.1. Nội dung nghiên cứu: Nghiên cứu Di chúc chung của vợ chồng theo pháp luật dân sự Việt Nam hiện hành và nêu ra các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về di chúc chung của vợ chồng.

2.2. Phương pháp nghiên cứu: Việc nghiên cứu đề tài dựa trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm chủ trương, đường lối của Đảng và nhà nước về pháp luật. Đặc biệt là các quan điểm của Đảng và Nhà nước về sở hữu tư nhân, về thừa kế trong thời kỳ đổi mới, mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế, đòi hỏi có sự khởi sắc về mọi mặt. Dựa trên phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lê nin. Bên cạnh đó, còn sử dụng một số phương pháp khoa học chuyên ngành khác: phương pháp logic, phân tích, so sánh, tổng hợp, lịch sử, nêu vấn đề…

Di chúc chung của vợ chồng theo pháp luật Dân sự Việt Nam hiện hành - 2

2.3. Mục đích nghiên cứu:

- Di chúc chung của vợ chồng là một loại di chúc đặc biệt thể hiện về chủ thể, nội dung, ý nghĩa, hình thức. Do đó để tìm hiểu và làm rõ các quy định của pháp luật hiện hành về di chúc chung của vợ chồng nói chung và hiệu lực pháp luật di chúc chung của vợ chồng nói riêng.

Trong khuôn khổ luận văn, học viên sẽ tập trung làm sáng tỏ các vấn đề sau đây:

- Pháp luật về thừa kế đã hình thành và tồn tại rất lâu, qua quá trình tồn tại và phát triển pháp luật về thừa kế có nhiều sự sửa đổi, bổ sung trên cơ sở kế thừa các quy định trước và các chuẩn mực đạo đức. Trong mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau pháp luật về thừa kế có sự thay đổi cho phù hợp với tình hình xã hội. Tuy nhiên mọi sự thay đổi đều tôn trọng con người, tôn trọng quyền sở hữu đối với tài sản của công dân, đảm bảo quyền tự do, thể hiện ý chí, tự định đoạt của công dân; bảo vệ trật tự xã hội, quyền lợi của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể.


- Thừa kế là sự chuyển giao tài sản từ người đã chết cho người còn sống. Có hai hình thức thừa kế: thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật. Mỗi hình thức thừa kế đều có đặc điểm riêng. Đặc biệt là thừa kế theo di chúc, với đặc thù là sự thể hiện ý chí của cá nhân sở hữu tài sản, pháp luật tôn trọng và bảo vệ sự tự do đó. Tuy nhiên đây cũng chính là nguyên nhân gây ra nhiều tranh chấp về thừa kế cần giải quyết.

- Di chúc chung của vợ, chồng có đặc điểm và quá trình hình thành phát triển riêng của nó. Có những thời điểm di chúc chung không được công nhận hoặc nếu được công nhận thì chỉ được công nhận một cách gián tiếp. Nhưng do tất yếu xã hội việc cụ thể hóa các vấn đề liên quan đến di chúc chung là điều không thể thực hiện.

- Qua phân tích các vấn đề: bản chất, nội dung, hình thức, hiệu lực… của di chúc chung giúp chúng ta có cái nhìn bao quát về di chúc chung của vợ, chồng. Từ đó hiểu được bản chất của di chúc chung của vợ, chồng. Trên cơ sở tìm hiểu và phân tích đó có thể tìm ra những điểm tiến bộ cũng như điểm còn hạn chế trong quy định của pháp luật về thừa kế hiện hành để có những giải pháp áp dụng tốt hơn trong thực tiễn.

Từ đó đưa ra một số kiến nghị về mặt lý luận và kiến nghị cụ thể về việc sửa đổi, bổ sung các quy định trong Bộ luật Dân sự năm 2005 nhằm hoàn thiện hơn pháp luật về thừa kế.

3. Cơ cấu của luận văn

Chương 1: Một số vấn đề lý luận về di chúc và di chúc chung của vợ,

chồng

Chương 2: Lý luận về di chúc chung của vợ, chồng theo pháp luật Việt

Nam hiện hành.

Chương 3: Đánh giá chung về quy định di chúc chung của vợ chồng. Kiến nghị và các giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về hiệu lực di chúc chung của vợ chồng


CHƯƠNG 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ

DI CHÚC VÀ DI CHÚC CHUNG CỦA VỢ, CHỒNG

1.1. Khái niệm, đặc điểm, hình thức di chúc chung của vợ, chồng

1.1.1. Khái niệm di chúc và di chúc chung của vợ chồng

Theo Từ điển tiếng Việt, “Di chúc là sự dặn lại của một người trước lúc chết với những người khác về những việc cần làm, nên làm” [18, tr. 254].

Theo cách hiểu thông thường, di chúc là lời dặn dò của một người trước khi chết để lại cho con cháu, có thể là lời dặn con cháu yêu thương nhau hay dặn con cháu làm một việc gì đó hoặc thể hiện ý nguyện của một người trước khi chết, ý nguyện về thờ cũng tổ tiên, ý nguyện về việc chia tài sản… Trong các gia đình Việt Nam truyền thống, các thành viên trong gia đình duy trì lối ứng xử coi trọng cái tâm, tư tưởng hiếu, lễ, hòa, mục giữa những người ruột thịt được đề cao. Vì thế, một người trước khi chết thường nghĩ rằng theo lời dặn lại của mình, những người còn sống sẽ cứ thế thực hiện và hưởng di sản một cách hòa thuận nên di chúc mà người chết để lại đa phần là những lời trăng trối, dặn dò mà ít khi quan tâm đến hình thức thể hiện lời dặn dò đó phải như thế nào, phải tuân thủ những quy định gì của pháp luật. Ngày nay, do sự phát triển của kinh tế - xã hội, dưới sự tác động của những mặt trái của kinh thế thị trường, lối ứng xử truyền thống phần nào bị mai một, những di chúc nói trên là một trong những nguyên nhân làm phát sinh tranh chấp về thừa kế. Vì vậy, bên cạnh cách hiểu thông thường về di chúc, khái niệm di chúc cần phải được luật hóa để đảm bảo đúng bản chất của nó là sự chuyển dịch tài sản từ người chết cho người còn sống theo ý chí của người lập di chúc.

Dưới góc độ pháp lý, Điều 649 BLDS VN năm 1995, Điều 646 BLDS VN năm 2005 định nghĩa di chúc như sau: “Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết”.


Như vây, di chúc là phương tiện phản ánh ý chí tự nguyện cuối cùng của cá nhân trước khi chết về việc định đoạt tài sản của họ cho người khác phù hợp với quy định của pháp luật. Sự bày tỏ ý chí của một người nhằm định đoạt tài sản thuộc quyền sở hữu của mình sẽ được chuyển giao cho một hoặc nhiều người sau khi người lập di chúc chết là một trong những quyền dân sự quan trọng của mỗi con người. Sự bày tỏ ý chí được thực hiện thông qua hình thức bằng văn bản hoặc bằng lời nói.

Điều 663 Bộ luật dân sự năm 2005 không đưa ra một khái niệm cụ thể thế nào là di chúc chung của vợ, chồng mà chỉ đưa ra một quy định rất chung chung, mang tính tùy nghi: “Vợ, chồng có thể lập di chúc chung để định đoạt tài sản chung”. Xét về bản chất, di chúc chung của vợ, chồng là một trường hợp đặc biệt của di chúc. Nếu di chúc thông thường người lập di chúc (cá nhân) có quyền định đoạt tài sản của mình (bao gồm tài sản riêng và tài sản chung) thì đối với di chúc chung của vợ, chồng người lập di chúc (vợ chồng) chỉ định đoạt phần tài sản chung của vợ, chồng. Vợ, chồng có quyền ngang nhau đối với tài sản thuộc sở hữu chung, trong đó có quyền lập di chúc chung để định đoạt khối tài sản chung của vợ, chồng sau khi chết. Như vậy, có thể hiểu, với tư cách là đồng sở hữu chung hợp nhất đối với tài sản, vợ và chồng có quyền định đoạt tài sản chung bằng nhiều cách, trong đó có quyền định đoạt tài sản chung bằng cách lập di chúc.

Di chúc chung của vợ, chồng thể hiện sự đồng thuận trong việc định đoạt tài sản chung. Chủ thể lập di chúc chung không phải là cá nhân mà là hai người: vợ và chồng, trên cơ sở bàn bạc, thỏa thuận đi đến thống nhất lập di chúc để định đoạt khối tài sản chung. Do đó, dựa vào những yếu tố trên, ta có thể đưa ra khái niệm di chúc chung của vợ, chồng như sau: “Di chúc chung của vợ chồng là sự thể hiện ý chí đồng thuận, thống nhất của vợ và của chồng nhằm chuyển dịch tài sản chung của vợ, chồng cho người khác sau khi chết.”

1.1.2. Đặc điểm di chúc chung của vợ, chồng


Di chúc chung của vợ, chồng là một trường hợp đặc biệt của di chúc nên nó có đầy đủ đặc điểm của một di chúc thông thường: sự thể hiện ý chí tự nguyện của bên lập di chúc; nội dung di chúc là định đoạt tài sản của người lập di chúc; di chúc phát sinh hiệu lực pháp luật khi người để lại di chúc chết.

Bên cạnh những điểm chung giống nhau, di chúc chung của vợ, chồng còn có một số đặc điểm riêng sau:

Thứ nhất, di chúc chung của vợ, chồng được hình thành dựa trên quan hệ hôn nhân còn hiệu lực.

Di chúc chung của vợ, chồng phải do người vợ và người chồng cùng lập, do đó giữa họ phải đang tồn tại quan hệ hôn nhân. Khoản 13, Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 xác định: “Thời kỳ hôn nhân là khoảng thời gian tồn tại quan hệ vợ, chồng được tính từ ngày đăng ký kết hôn đến ngày chấm dứt hôn nhân”.

Do nhiều nguyên nhân khác nhau mà một số trường hợp không đáp ứng được các điều kiện về nội dung và hình thức kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 hay Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định nhưng việc lập di chúc chung giữa họ vẫn được thừa nhận như: Trường hợp có nhiều vợ hoặc nhiều chồng; trường hợp nam nữ sống chung với nhau như vợ, chồng (Thông tư số 60 - DS ngày 22/2/1978 của Tòa án nhân dân tối cao); Trường hợp nam, nữ sống chung với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn (Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 09/6/2000 của Quốc hội về thi hành Luật hôn nhân và gia đình; Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT ngày 03/1/2001 của TANDTC, VKSNDTC và BTP về thi hành Nghị quyết số 35/2000/QH10). Cụ thể như sau: [10, tr2]

- Đối với những trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập từ trước ngày 03/01/1987 (ngày Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực) mà không đăng ký kết hôn, thì khi Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 có hiệu


lực, những trường hợp này được khuyến khích đăng ký kết hôn, nghĩa là viêc

đăng ký kết hôn theo thủ tuc

Luâṭ điṇ h sẽ không bi ̣han

chế thời gian.

- Trường hợp nam, nữ sống chung với nhau như vợ, chồng từ ngày 03/01/1987 (ngày Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực) đến ngày 01/01/2001 (ngày Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 có hiệu lực) mà không đăng ký kết hôn, khi Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 có hiệu lực, nếu có đủ điều kiện kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định thì có nghĩa vụ phải đăng ký kết hôn trong thời hạn hai năm. Hết thời hạn trên mà không đăng ký kết hôn thì không được pháp luật công nhận là vợ, chồng.

- Trường hợp nhiều vợ, nhiều chồng: quan hệ hôn nhân của vợ, chồng được xác lập trước ngày 13/01/1960 tuy có vi phạm chế độ hôn nhân một vợ, một chồng nhưng vẫn được thừa nhận và không trái với pháp luật. Theo

nguyên tắc chung, nguyên tắc hôn nhân môt

vơ ̣, môt

chồng đươc

thưc

hiên tư

ngày LHN&GĐ năm 1959 có hiệu lực (từ ngày 13/01/1960).

Thứ hai, di chúc chung của vợ chồng là sự thể hiện ý chí chung, thống nhất của hai vợ, chồng.

Đó là sự thể hiện ý chí thống nhất trong việc phân định tài sản chung cho ai, chỉ định người thừa kế di chúc, người quản lý di sản, người phân chia di sản…mà nó không bị chi phối bởi ý kiến của bất kỳ ai, cũng không cần có sự đồng ý, thỏa thuận của những người được hưởng di sản thừa kế.

Thứ ba, tài sản được định đoạt trong di chúc chung của vợ, chồng là tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất của vợ, chồng.

Trong thời kỳ hôn nhân, vợ, chồng có thể có tài sản chung, có thể có tài sản riêng. Tuy nhiên khi lập di chúc chung của vợ, chồng thì tài sản được định


đoạt trong đó chỉ bao gồm tài sản chung. Tài sản chung của vợ chồng bao gồm:

“1. Tài sản chung của vợ, chồng bao gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ, chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ, chồng thỏa thuận là tài sản chung.

Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ, chồng. Quyền sự dụng đất mà vợ, chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ, chồng có sự thỏa thuận.

3. Trong trường hợp không có chứng chứ chứng minh tài sản mà vợ chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó là tài sản chung.” [8, tr 22]

Thứ tư, thời điểm có hiệu lực của di chúc chung của vợ, chồng là thời điểm người sau cùng chết hoặc tại thời điểm vợ, chồng cùng chết.

Điều 668 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: “Di chúc chung của vợ, chồng có hiệu lực từ thời điểm người sau cùng chết hoặc tại thời điểm vợ, chồng cùng chết”. Đây cũng là một đặc trưng của di chúc chung của vợ, chồng làm nó có khác biệt so với di chúc do một cá nhân lập. Bởi thời điểm di chúc do cá nhân lập theo quy định của pháp luật chỉ có hiệu lực khi cá nhân đó chết, còn thời điểm có hiệu lực của di chúc chung của vợ, chồng được xác định qua hai trường hợp.

Thứ năm, Vợ chồng có các quyền sau để định đoạt tài sản chung của vợ, chồng:

Một là, Quyền chỉ định người thừa kế, truất quyền thừa kế của người thuộc diện thừa kế:

Xem tất cả 97 trang.

Ngày đăng: 15/10/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí