cháy; trong sự nghiệp đó, người nghệ sĩ lớn ngay từ đầu đã dứt khoát: “Xây Cửu Trùng đài cho một tên bạo chúa, một tên thoán nghịch, cho một lũ gái dâm ô? Tôi không thể đem tài ra làm bia miệng cho người đời được”; nhưng rồi nghe theo lời Đan Thiềm, ông đã nhận lời và hăng hái nhập cuộc. Cho đến khi bị điệu ra pháp trường, ông vẫn còn ngơ ngác: “Ta tội gì? Không, ta chỉ có một hoài bão là tô điểm cho đất nước, đem hết tài ra xây cho nòi giống một toà đài hoa lệ, thách cả những công trình sau trước, tranh tinh xảo với hoá công. Vậy thì ta có tội gì? Ta xây Cửu Trùng đài có phải đâu để hại nước!”[2;101]. Bi kịch lớn là ở đây. Ở một sự nghiệp muốn được sống vĩnh cửu theo thời gian, muốn là biểu tượng vẻ vang của xứ sở, nhưng lại phục vụ cho cường quyền. Là kết quả sáng tạo của người nghệ sĩ, nhưng lại được thực hiện trên mồ hôi, xương máu của nhân dân. Giải quyết mâu thuẫn và bi kịch này như thế nào, đó là cả một câu hỏi lớn. Nguyễn Huy Tưởng phải để cho nhân vật chết trong lửa hận của quần chúng; nhưng cái niềm phân vân, và giằng co chưa thể giải toả trong quan niệm nghệ thuật, ông đem đặt vào lời đề từ của tác phẩm:
“... Than ôi! Như Tô phải hay những kẻ giết Như Tô phải? Ta chẳng biết. Cầm bút chẳng qua cùng một bệnh với Đan Thiềm”.
Kịch Vũ Như Tô có vóc dáng vạm vỡ của một tượng đài. Nói đúng hơn, một nhóm tượng đài, với cuồn cuộn lửa khói và đám đông hò reo, với thấp thoáng bóng dáng sầu muộn của Đan Thiềm và gương mặt vừa rạng rỡ, vừa quằn quại, đau khổ của Vũ Như Tô khi thấy Cửu Trùng Đài bốc cháy.
Cũng chính vì sự phân vân này mà cả một thời gian dài, suốt hai thập niên, dẫu đã trải nhiều lần sửa chữa, Vũ Như Tô vẫn chưa thể đưa in. Nó là cả một nỗi niềm của tác giả.
* Bắc sơn
Nguyễn Huy Tưởng phản ánh chân thực phần nào cuộc vùng dậy vĩ đại của quần chúng cách mạng trong cuộc đấu tranh lớn lao. Vở kịch Bắc Sơn đã
khiến chúng ta sống một phần nào cái không khí bừng bừng của cuộc cách mạng đang lên (màn I) rồi cái lớn lao, đau đớn của cuộc cách mạng tan vỡ (màn III) và cái hi vọng cuộc cách mạng nhóm trở lại (màn V).
Kịch Bắc Sơn đã vẽ được bằng những nét mạnh dạn, sinh động, một vài nhân vật cách mạng: Người cán bộ, người dân cày, người thanh niên, ông lão, người đàn bà… kịch Bắc Sơn đã cho ta thấy cả sự tiến triển, biến động trong tâm hồn những nhân vật ấy nhờ cuộc cách mạng như thế nào. Sau hết, kịch Bắc Sơn đã khiến ta hiểu phong trào Bắc Sơn với những ưu điểm và khuyết điểm của nó.
Có thể bạn quan tâm!
- Đề tài lịch sử và cách mạng trong kịch của Nguyễn Huy Tưởng - 1
- Đề Tài Lịch Sử Trong Văn Học Thế Giới.
- Đề Tài Lịch Sử Trong Sáng Tác Của Nguyễn Huy Tưởng.
- Đề tài lịch sử và cách mạng trong kịch của Nguyễn Huy Tưởng - 5
Xem toàn bộ 114 trang tài liệu này.
Kịch Bắc Sơn thuộc loại kịch tuyên truyền, biểu dương tinh thần chiến đấu bất diệt của dân chúng Bắc Sơn. Suốt năm màn kịch, ta thấy tác giả đã cố gắng nhiều. Vì thế nghệ thuật không hề bị làm hại, và mục đích tuyên truyền tuy phải xếp hàng hai nhưng cũng ghi được ấn tượng trong óc người xem.
* Những người ở lại
Với sự am hiểu và kiến thức uyên thâm của mình, Nguyễn Huy Tưởng lại tiếp tục thuyết phục người đọc bằng những phút hồi hộp mà đồng bào Thủ Đô đã trải qua ngay hôm nổ súng. Ghi lại khoảnh khắc, đời sống tâm hồn, ý tưởng, hành vi của những người vì hoàn cảnh mà phải ở lại thủ đô có lẽ chỉ cho Nguyễn Huy Tưởng mới làm được điều đó và cho ra đời một tác phẩm có giá trị thêm cho đề tài kịch lịch sử và cách mạng: Những người ở lại (1948) là một tác phẩm như thế.
Vở kịch Những người ở lại ra đời được mọi người hết sức hoan nghênh vì tác giả đã chọn một đề tài đặc sắc có thể an ủi phần nào niềm nhớ nhung của mọi người đang mang trong mình hình ảnh thủ đô yêu mến và mong mỏi trở về thủ đô giữa quang cảnh tưng bừng và khúc khải hoàn vang dậy. Cốt truyện phức tạp của vở kịch đã đòi hỏi rất nhiều công phu cấu tạo. Tác giả đã khéo chọn những trường hợp giữa bác sỹ Thành với Sơn, cũng như giữa trường hợp bác sỹ Thành với Ngọc Cẩm, giữa Ngọc Cẩm với
Quảng, giữa Quảng với Lan… làm cho bạn đọc hồi hộp. Tách riêng từng phần mà xét ta thấy tác giả đã có tài sắp đặt được nhiều tình tiết. So với vở kịch Bắc Sơn kĩ thuật kịch của Nguyễn Huy Tưởng trong Những người ở lại tiến rất nhiều. Những ưu điểm ấy cho ta đặt nhiều hy vọng vào tác giả ở những tác phẩm sau này.
3. Mục đích nghiên cứu.
Luận văn tiến hành khảo sát, nghiên cứu một cách bao quát và hệ thống về đề tài lịch sử của Nguyễn Huy Tưởng trong các tác phẩm kịch:
- Vũ Như Tô (1943).
- Bắc Sơn (1946).
- Những người ở lại (1948).
Đây là những tác phẩm nổi tiếng trong sự nghiệp sáng tác của ông. Tìm hiểu về đề tài lịch sử và cách mạng trong kịch của Nguyễn Huy Tưởng với mong muốn có cái nhìn khách quan và khoa học về vấn đề nghiên cứu, trên cơ sở đó ghi nhận những đóng góp và khẳng định vị trí của nhà văn với sự phát triển thể loại kịch.
4. Phạm vi và giới hạn đề tài.
Luận văn tập trung nghiên cứu ba tác phẩm kịch:
- Vũ Như Tô (1943).
- Bắc Sơn (1946).
- Những người ở lại (1948).
Đây là ba tác phẩm được viết theo trình tự thời gian lịch sử ở Việt Nam từ trước và sau cách mạng tháng Tám năm 1945 của Nguyễn Huy Tưởng. Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi có sự tham khảo và so sánh với những tác phẩm của các nhà văn khác cùng đề tài.
5. Phương pháp nghiên cứu.
Để đạt tới mục đích nghiên cứu, trong quá trình thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu, chúng tôi sử dụng những phương pháp sau:
- Phương pháp lịch sử xã hội.
- Phương pháp so sánh.
- Phương pháp đối chiếu.
- Phương pháp hệ thống.
- Vận dụng lý thuyết thi pháp tác phẩm và thi pháp thể loại.
6. Những đóng góp của luận văn.
- Tìm hiểu đề tài lịch sử trong thể loại kịch của Nguyễn Huy Tưởng: Miêu tả, phân tích, chỉ ra đặc điểm của thể loại kịch của Nguyễn Huy Tưởng.
- Đóng góp thêm một cái nhìn mới có tính chất hệ thống và hoàn thiện hơn về đề tài lịch sử trong sáng tác nói chung và sáng tác kịch nói riêng của Nguyễn Huy Tưởng.
- Góp thêm một tiếng nói hữu ích trong việc nghiên cứu sự nghiệp văn học của Nguyễn Huy Tưởng, có thể làm tài liệu tham khảo cho việc dạy và học văn học trong các trường Trung học Phổ thông.
7. Cấu trúc của luận văn
Phần nội dung được triển khai trong 3 chương:
Chương 1: Đề tài lịch sử trong sáng tạo nghệ thuật.
Chương 2: Cảm hứng lịch sử và cách mạng trong kịch của Nguyễn Huy Tưởng.
Chương 3: Đặc điểm nghệ thuật kịch về đề tài lịch sử và cách mạng của Nguyễn Huy Tưởng.
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
ĐỀ TÀI LỊCH SỬ TRONG SÁNG TẠO NGHỆ THUẬT
1.1. Những quan niệm khác nhau về đề tài lịch sử.
Sự bất đồng trong quan niệm về đề tài lịch sử của các nhà nghiên cứu xuất phát từ những cách hiểu khác nhau về thuật ngữ khi đặt lịch sử trong tương quan với tiểu thuyết, quan hệ giữa sự thật lịch sử và hư cấu, độ lùi quá khứ gần xa đến mức độ nào… đề tài lịch sử trong văn học hiểu theo nghĩa chung nhất, là kịch văn học viết về đề tài lịch sử. Sự có mặt của lịch sử trong kịch nảy sinh những mâu thuẫn: thứ nhất, lịch sử đòi hỏi chính xác, tỉ mỉ còn kịch cho phép hư cấu, vậy lịch sử trong văn học có thể hư cấu đến đâu; thứ hai, lịch sử trong văn học là lịch sử của những biến cố trọng đại và những nhân vật có can dự trực tiếp trong biến cố hay lịch sử của những câu chuyện đời thường và số phận vô danh; thứ ba, những tác phẩm viết về thời kỳ gần đây có được coi là những tác phẩm viết về đề tài lịch sử hay không, khoảng cách thời gian tác giả sống với thời đại trong tác phẩm như thế nào là đủ. Bên cạnh đó, sự khác biệt trong truyền thống văn hóa phương Đông và phương Tây cũng tạo nên những quan niệm khác nhau về trong văn học về đề tài lịch sử.
Theo quan niệm truyền thống, lịch sử cần đảm bảo độ chính xác lịch sử với những sự kiện có tầm vóc, nhân vật có can dự trực tiếp vào biến cố lịch sử đóng vai trò nhân vật trung tâm và mục đích tái hiện lại lịch sử theo quan điểm chính thống. Với quan niệm này ngày nay văn học viết đề tài lịch sử khó có đất để tồn tại bởi xét về độ chân thật và chính xác, nó thua xa những thể loại phóng sự, ký sự, hơn nữa nếu cần cung cấp kiến thức lịch sử, chỉ cần một cái nhấp chuột, người đọc có thể thỏa mãn mọi tò mò về các triều đại, các nhân vật lịch sử ở bất cứ đất nước nào. Với quan niệm rộng mở hơn, văn học
viết về đề tài lịch sử bao hàm cả dã sử, huyền sử, thậm chí là phản lịch sử là sự tổng hợp nhiều chủ đề, có thể chỉ xuất hiện khung cảnh lịch sử, tùy theo trí tưởng tượng nhà văn mà hư cấu nhân vật và không nhất thiết phải nhân vật đó phải đóng vai trò trung tâm trong tiến trình lịch sử. Sự nới rộng quan niệm đó dẫn đến việc văn học lịch sử lấn sân sang nhiều địa hạt khác, nghĩa là nó dung nạp cả tiểu thuyết sử thi, tiểu thuyết phong tục, tiểu thuyết kiếm hiệp, tiểu thuyết lãng mạn… Và với quan điểm như vậy dù lối viết hiện đại hay truyền thống, trung thực với chính sử hay giả lịch sử, thể hiện chủ đề lịch sử qua việc tái hiện lịch sử hay tư tưởng nhân sinh nào khác, những tác phẩm hiện diện yếu tố lịch sử không hạn chế khả năng và tự do sáng tạo của nhà văn đều được coi là tiểu thuyết lịch sử. Quan niệm rộng mở này sẽ không làm tàn lụi tiểu thuyết lịch sử, trái lại, giúp nó hồi sinh dưới những dạng thức mới. Tuy nhiên, chấp nhận hay không vẫn tùy thuộc vào quan điểm của từng cá nhân.
Trong văn học, đề tài lịch sử luôn là nguồn cảm hứng vô tận cho các nhà văn. Có rất nhiều quan niệm khác nhau về đề tài lịch sử trong sáng tạo nghệ thuật. Nhưng trong một phạm vi nhất định, đề tài lịch sử được đề cập tới trong văn học không chỉ là sự sao chép, mô phỏng những sự kiện mà còn là sự suy ngẫm về ý nghĩa của những sự kiện; về những bài học lịch sử phù hợp với thời đại, với nhà văn và với môi trường đạo đức, xã hội – tinh thần mà tác giả gắn bó.
Ở mỗi thời đại khác nhau lại xuất hiện những quan niệm khác nhau về đề tài lịch sử, ví dụ như:
Ảnh hưởng của những sử gia cổ đại: “Là không thể coi thường được”. Tác giả Thucydide với tác phẩm: “Cuộc chiến tranh của Péloponnèse” (khoảng 460-395 TCN), tác phẩm này đã tường thuật lại cuộc chiến tranh Péloponnèse mà chính nhà sử học Hy lạp này đã được chứng kiến và đây là
một mẫu mực về sự phê bình thông minh những sự kiện diễn ra và được độc giả chú ý rất nhiều.
Sang đến thời Trung cổ và thế kỷ XVI: Lịch sử thường được ghi chép qua các tiểu sử tự thuật hoặc các tiểu sử của những tác giả có chung quan niệm với chủ nghĩa cá nhân thời Phục Hưng: Đề tài lịch sử đôi khi có những nét giống với lời tán tụng hay một tiểu sử thánh thần hay đã được sáng tạo dưới dạng một tập hợp những sự việc vui nhộn mang tính giáo dục đạo lý, đẹp mê hồn, hay nêu gương đạo đức để cảm hóa, quan niệm này còn tồn tại mãi đến thế kỉ XIX.
Ở thế kỉ XVII và XVIII: Lúc này lịch sử đã trở thành một thể loại văn học và vì vậy nó phải đáp ứng những tiêu chí của cách cư xử hợp lề thói, của kết cấu bố cục…
Đến thế kỉ XIX: Đối với một số tác giả, lịch sử vẫn luôn là một đề tài hấp dẫn với những bận tâm về mặt mỹ học của tác phẩm (màu sắc, kể chuyện, kịch…) đồng thời cũng thể hiện sự quan tâm đến tính khách quan đến ý nghĩa cụ thể, đến tính cách cá nhân…đối với những người khác, đề tài lịch sử ngả về việc phân tích sự việc được xem xét một cách trừu tượng hơn.
Từ sau năm 1870, đề tài lịch sử mang tính thực chứng áp đặt một quan niệm thực sự khoa học.
Đến thế kỉ XX: Những tác giả nghiên cứu đề tài lịch sử đã cố gắng tránh những trở ngại gây ra bởi tính chủ quan trong khi coi trọng hơn nữa phương pháp phê bình. Đề tài lịch sử khai thác ở mọi lĩnh vực cố khôi phục lại một cách khách quan tâm hồn của một thời đại, các tác giả văn học thường gắn bó một chủ đề với một giai đoạn lịch sử được xác định chính xác, hướng đề tài lịch sử về những tâm tính, những biểu hiện tư tưởng, những bước tiến của dân chúng, những phong tục tập quán…
Có thể nói lịch sử cho nguời ta một sự siêu thoát và đề tài lịch sử là một nguồn cảm hứng vô tận với những nhà văn vì thế Hugô (trong lời nói đầu của vở Crômwell ) và những nhà văn lãng mạn đã nhấn mạnh đến việc sử dụng lịch sử để tô đậm màu sắc địa phương của tác phẩm văn học.
Cho dù quan niệm về đề tài lịch sử như thế nào thì lịch sử vẫn luôn là miền đất hấp dẫn đối với nhà văn. Hồ Quý Ly và Mẫu Thượng ngàn của Nguyễn Xuân Khánh ra đời cách nhau khoảng năm sáu năm nhưng hai cuốn tiểu thuyết này là kết quả của một quá trình thai nghén lâu dài với cảm thức lịch sử và những trải nghiệm thể hiện tư tưởng nghệ thuật, nhãn quan độc đáo của nhà văn. Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh đã từng cho rằng “Theo tôi, tiểu thuyết lịch sử trước hết là tiểu thuyết”. Có thể thấy Nguyễn Xuân Khánh khá nhấn mạnh tính tiểu thuyết trong các tác phẩm viết về lịch sử của mình. Bài viết không nhằm mục đích phân loại tiểu thuyết của Nguyễn Xuân Khánh có phải tiểu thuyết lịch sử hay không mà tìm hiểu quan niệm về lịch sử thông qua thế giới nghệ thuật với mong muốn góp phần lý giải sự thành công của hai cuốn tiểu thuyết Hồ Quý Ly và Mẫu Thượng ngàn.
Nhận định về sự khác nhau giữa vai trò của nhà văn với nhà sử học, M. Kundera cho rằng: “Khoa chép sử viết lại lịch sử xã hội chứ không phải con người, vì vậy những sự kiện lịch sử được nói đến trong các tiểu thuyết của tôi thường bị khoa chép sử bỏ quên”[23]. Tiểu thuyết viết về đề tài lịch sử vấp phải vấn đề muôn thuở đó là cần phải giải quyết mâu thuẫn giữa sự thật và hư cấu, lịch sử yêu cầu tính chân thực trong khi văn học cho phép hư cấu. Giải pháp tốt nhất có thể thực hiện đó là nhà văn giải quyết mối mâu thuẫn giữa sự thật và hư cấu bằng “sự thật của con người”, độc giả có quyền không tin nhà văn nhưng sự thật về con người theo logic khách quan thì không thể phủ nhận.
Khám phá con người trong lịch sử vốn không phải là chuyện mới, bởi “văn học là nhân học”, tuy nhiên, khi nhà văn tiếp cận lịch sử có thể bị hút vào các sự kiện, biến cố mà làm mờ nhạt đi khả năng khám phá con người. Tiểu thuyết Nguyễn Xuân